TÀI LIỆU HỎI – ĐÁP TUYÊN TRUYỀN THÀNH TỰU 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG HUYỆN TUY PHONG (17/4/1975 - 17/4/2025)
Câu 1: Hãy sơ lượt một số sự
kiện lịch sử đáng nhớ của huyện Tuy Phong những ngày đầu vừa mới giải phóng?
Trả lời: Tháng 01 năm 1975, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Bình Thuận, các địa
phương nắm chắc thời cơ, thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa theo phương
châm tự lực, tự cường “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải
phóng tỉnh”. Theo tinh thần đó, Huyện ủy các huyện Tuy Phong, Hoà Đa, Phan Lý,
Hải Ninh chỉ đạo cho các xã, các đội công tác tổ chức lực lượng tại chỗ, thành
lập ban khởi nghĩa địa phương và phân công các đoàn thể, từng bộ phận chuẩn bị,
để khi có thời cơ thì nhất tề đứng lên giành chính quyền, làm chủ quê hương.
Lực lượng chính trị trong vùng địch được xây dựng; bộ đội địa phương và du kích
sẵn sàng áp sát các xã, ấp của địch.
Nghe tin tỉnh Ninh Thuận đã
được quân, dân ta giải phóng vào ngày 16/4/1975 và cánh quân Duyên hải- Quân
đoàn II đang tiến vào Phan Thiết-Bình Thuận, làm cho địch ở các huyện Tuy
Phong, Hoà Đa, Phan Lý, Hải Ninh hoàn toàn rệu rã, có người bỏ việc hoặc làm
việc cầm chừng. Chỉ một số ít bọn đầu sỏ vẫn còn ngoan cố, một mặt muốn ra sức
chặn đường tiến quân của ta, mặt khác lại ra lệnh đốt hồ sơ tài liệu và chuẩn
bị tìm đường tháo chạy.
Sau khi đánh địch ở Cà Ná,
cánh quân Duyên hải-Quân đoàn II tiến đến ngã tư Liên Hương vào chiều ngày
17/4/1975, không gặp sự kháng cự nào vì lực lượng địch tại Chi khu
quận lỵ Tuy Phong của địch đã bỏ súng, chạy trốn xuống hướng biển từ sáng sớm.
Nắm được thời cơ đó, đêm 17/4/1975 Huyện ủy Tuy Phong khẩn trương tổ chức phối
hợp lực lượng, đến 4 giờ sáng ngày 18/4/1975 tiến vào tiếp quản quận lỵ Tuy
Phong. Sau đó lần lượt các xã vùng tạm bị chiếm của huyện Tuy Phong đứng
lên giành chính quyền. Tối 21/4/1975, tại trường Bồ Đề (nay
là Trường Mầm non Hoa Phượng, tại thị trấn Liên Hương), huyện Tuy Phong
tổ chức lễ ra mắt Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Huyện gồm 8 uỷ viên, do
đồng chí Phạm Trọng Do, Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ làm Chủ tịch. Bộ máy chính
quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã, thôn cũng được thành lập và lần lượt ra
mắt nhân dân vào những ngày cuối tháng 4/1975.
Sau thắng lợi của cách mạng
miền Nam, cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để thống nhất tổ
chức hành chính trong cả nước, Trung ương quyết định giải thể các khu, sáp nhập
một số tỉnh thành mới. Đối với Khu VI, tháng 10/1975, giải thể lập thành tỉnh
Thuận Lâm. Nhưng do địa bàn rộng lớn, đầu năm 1976, tỉnh Thuận Lâm được chia
thành hai tỉnh Lâm Đồng và Thuận Hải (trong đó tỉnh Thuận Hải gồm có các tỉnh
Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy). Tháng 2/1976, hợp
nhất 4 huyện, gồm: Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong thành huyện Bắc Bình, toàn huyện có 29 xã. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ huyện
Bắc Bình gồm 21 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy có 07 đồng chí, do
đồng chí Nguyễn Ninh, làm Bí thư Huyện ủy. Ủy ban nhân dân cách mạng huyện, gồm
09 đồng chí, do đồng chí Bùi Quốc Thắng làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Trọng Do
làm Phó Chủ tịch huyện.
Toàn huyện Bắc Bình, có 3 vùng rõ rệt: đồng bằng, miền
núi, ven biển. Ngoài ra, có đảo Phú Quý cách xa đất liền hơn 100 km. Địa giới
của Huyện, phía Bắc giáp huyện Ninh Phước, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng,
phía Tây giáp huyện Hàm Thuận, phía Đông và Nam giáp biển. Dân số có 143.339
người, gồm các dân tộc: Kinh, Chăm, K’Ho, Raglai, Hoa, Tày, Nùng,…Đa số dân
sống tập trung ở đồng bằng dọc 2 bên Quốc lộ 1A, đông nhất ở thị trấn và miền
biển.
Câu 2: Hãy nêu tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội
của huyện Tuy Phong những năm đầu, sau giải phóng?
Trả lời: Tháng 4/1975 khi mới giải phóng, nhất là từ tháng 2/1976,
hợp nhất 4 huyện, gồm: Hòa Đa,
Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong thành huyện Bắc Bình,
toàn huyện có 29 xã. Khi sáp nhập, cơ sở hạ tầng cơ bản như điện, đường, trường
trạm, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện phục vụ phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Giai đoạn này,
Huyện chú trọng khôi phục, đẩy mạnh sản xuất lương thực đảm bảo nhu cầu đời
sống cho Nhân dân, ưu tiên cây lương thực chính vụ (lúa, bắp, đậu, mì, khoai
lang…) xây dựng vùng chuyên canh cây thuốc lá (xã Vĩnh Hảo). Khôi phục và phát
triển nghề đánh bắt cá biển, chế biến hải sản, nghề muối, phát triển chăn nuôi.
Thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một số cơ sở kinh tế quốc
doanh, xây dựng cơ sở kinh tế tập thể với các hình thức tổ hợp tác để phát
triển sản xuất ngày càng cao hơn.
- Về kinh tế, thực hiện mô hình hợp tác xã. Toàn Huyện chỉ gieo cấy
530 ha lúa ngắn ngày, 120 ha thuốc lá, 6.100 ha màu các loại, làm mới và tu bổ
19 đập nước lớn nhỏ, năng suất lúa trung bình 4 tấn/ha; thành lập Ban Chỉ đạo
vùng kinh tế mới La Bá (đưa 100 hộ dân ở Liên Hương đến sinh sống, sản xuất);
tháng 4/1979, thành lập hợp tác xã nông nghiệp Bình Điền - mô hình hợp tác xã
nông nghiệp đầu tiên của huyện Tuy Phong. Về kinh tế biển, triển khai các hoạt
động khai thác, đánh bắt hải sản, làm muối, chế biến nước mắm (vùng Liên Hương,
Phan Rí Cửa, Chí Công), thời điểm này, Phan Rí Cửa đã có điện (máy nổ phát
điện), có cơ sở công nghiệp nhỏ nên hình thành một số cơ sở chế biến lương
thực- thực phẩm nhỏ; thực hiện phong trào hợp tác hóa vùng biển. Trước đó, vào
tháng 9/1975, theo chỉ đạo của cấp trên, Huyện ta thực hiện việc đổi tiền chế
độ cũ ở miền Nam để lưu thông tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi là tiền
giải phóng); tổ chức các hợp tác xã mua bán.
- Về y tế, Huyện khẩn
trương tổ chức tiếp quản Trung khu y tế Hoà Đa tại xã Phan Rí Cửa để thành lập
Bệnh viện Huyện. Các y tá, y sĩ ở chiến khu về làm việc ngay, bên cạnh đó ta
tuyển dụng số y- bác sĩ chế độ cũ vào làm việc nhằm chữa bệnh cho nhân dân. Để
tăng cường đội ngũ chuyên môn, Huyện mở lớp đào tạo cấp tốc 40 y tá đưa về công
tác tại Trạm y tế các xã: Chí Công, Hòa Minh, Phan Rí Thành, Chợ Lầu, Lương
Sơn, Hòa Thắng. Ngoài ra, Huyện còn tổ chức các tổ y tế lưu động đi khám, chữa
bệnh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, miền núi. Tuy có
khó khăn về đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế nhưng công tác chăm sóc sức khỏe
cho người dân đã có Đảng và Nhà nước quan tâm. Các xã vùng đồng bằng đều có
trạm y tế và nhà hộ sinh, các thị trấn có trạm xá phục vụ khám chữa bệnh, cấp
thuốc (chủ yếu là trị bệnh sốt rét) miễn phí cho người dân. Đến năm 1980, toàn Huyện
có 01 bệnh viện (được tổ chức quốc tế UNICEF viện trợ đầu tư cuối năm 1979), 02
phòng khám khu vực, 24/29 xã có trạm y tế, các khoa phòng của Bệnh viện huyện
được trang bị các thiết bị y tế đồng bộ, đảm bảo chất lượng khám, điều trị cấp
cứu đạt kết quả cao, kết hợp đông- tây y trong điều trị bệnh… góp phần nâng
chất lượng công tác khám, chữa bệnh,
- Về giáo dục, hoạt
động tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng việc dạy và học tiếp tục được duy trì. Để
giải quyết những khó khăn trước mắt, ngoài số giáo viên ở căn cứ về, ta xem xét
tuyển dụng giáo viên chế độ cũ; mặt khác, tổ chức khoá sư phạm cấp tốc đào tạo
giáo viên tại chỗ và xin chi viện giáo viên từ miền Bắc vào. Đồng thời ngành
giáo dục Huyện tiến hành tổ chức các lớp tập huấn chính trị, chương trình và
phương pháp giảng dạy mới cho giáo viên. Để giải
quyết tình trạng mù chữ, thất học, Huyện tiếp tục chỉ đạo cho các xã mở các lớp
xoá mù chữ, bình dân học vụ, bổ túc văn hóa với phương châm “nơi nào có dân là
nơi đó có lớp học”; phần lớn là số người có độ tuổi từ
20 đến 40 tham gia học tập. Tuy lúc bấy giờ điều kiện trường lớp còn khó khăn,
nhưng bố trí đầy đủ các lớp học từ mẫu giáo đến cấp III. Đến năm 1982, chất
lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ tốt nghiệp cấp III đạt 100%, có 7
học sinh đạt học sinh giỏi toàn quốc, 14 học sinh giỏi cấp tỉnh, 123 học sinh
giỏi cấp huyện.
- Về hoạt động thông tin, văn hóa, văn nghệ chủ yếu tận dụng những cơ sở
vật chất còn sót lại sau chiến tranh, thực hiện theo phương châm “cây nhà lá
vườn”, hầu như nơi nào cũng thành lập đội văn nghệ và tự dàn dựng những chương
trình biểu diễn phục vụ Nhân dân. Tuy khó khăn vậy, nhưng cũng có nhiều tiết
mục mang nội dung phong phú, ý nghĩa như ca ngợi Đảng, Bác Hồ, tôn vinh sự hy
sinh của các anh hùng liệt sĩ, phê phán hủ tục mê tín dị đoan, hướng người dân
xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ, nhờ thực hiện chủ trương quốc
hữu hóa, Huyện có 05 rạp chiếu bóng ở các xã Phan Rí Cửa, Sông Mao, Liên Hương,
Chợ Lầu, Lương Sơn, các thư viện, tủ sách, các cửa hiệu, quầy hàng bán sách…
phục vụ đời sống tinh thần cho Nhân dân; các hoạt động vận tải, thương nghiệp
bước đầu hình thành phục vụ nhu cầu đi lại, đời sống Nhân dân. Đến năm 1982,
ngoài Đài truyền thanh Huyện phát sóng trong bán kính 10km, còn có 13 đài
truyền thanh xã và 39 trạm truyền thanh của hợp tác xã; các xã vùng sâu, vùng
cao, miền núi, các xã căn cứ kháng chiến được trang bị ampli, máy nổ, loa…, một
số xã thành lập đội văn nghệ thôn để phục vụ Nhân dân.
Câu 3: Hãy nêu tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của huyện Tuy Phong những năm đầu, sau
giải phóng?
Trả lời: Trong giai đoạn này, công tác
an ninh có nhiều diễn biến phức tạp, một số tàn quân, ngụy quân và một số đối
tượng phản động đội lốt tôn giáo phao tin đồn nhảm nhằm kích động, gây chia rẽ
Nhân dân…Trước tình hình đó, Huyện đã phát động quần chúng phối hợp với các lực lượng an ninh, quân sự liên
tục tấn công, truy quét, trấn áp bọn lưu manh, côn đồ, bọn phản động âm mưu
cướp vũ khí trốn ra rừng, bỏ chạy trốn ra nước ngoài. Bằng các biện pháp quân
sự-chính trị-an ninh kết hợp với thực hiện chính sách đoàn kết dân
tộc, Huyện đã tổ chức truy bắt hàng trăm tên trốn trình diện, cải tạo, bọn tàn
quân lẫn trốn; buộc bọn Phun- rô (FULRO) ngoài rừng về đầu hàng, cùng với các
cơ sở bí mật của chúng ở một số thôn xóm lần lượt ra đầu thú; chặn bắt các vụ
vượt biển trốn đi nước ngoài; bảo đảm các ngày lễ, hội họp, bầu cử Quốc hội
được an toàn. Đến năm 1982, công tác quốc
phòng đạt được một số kết quả toàn diện hơn, đã xây dựng và từng bước củng cố
phương án tác chiến phòng thủ tại chỗ, thành lập 07 cụm chiến đấu liên hoàn
trên các tuyến biển, vùng giáp ranh và những địa bàn xung yếu. Đặc biệt,
gần 1.000 đoàn viên, thanh niên xung phong tình nguyện lên đường làm nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia.
Câu 4: Tình hình công tác xây dựng Đảng của Huyện thời
gian đầu sau giải phóng như thế nào ?
Trả lời: Năm 1975, toàn Huyện có 48 cơ
sở đảng với 537 đảng viên (có 231 nữ). Sau khi
sáp nhập 4 huyện, gồm: Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong thành lập huyện
Bắc Bình, toàn Huyện có 52 chi bộ, 499 đảng viên. Đến tháng 6/1976, toàn Huyện
có 57 chi đảng bộ, 640 đảng viên; trong đó có 16 chi bộ xã, chi bộ nhỏ có ở 26
thôn, 3 chi bộ xã người Chăm, 3 chi bộ xã vùng cao-miền núi và một chi bộ xã
người Hoa. Trong 6 tháng đầu năm 1976, kết nạp được 26 đảng viên mới và phục
hồi đảng tịch cho 21 đảng viên bị bắt, bị tù trong kháng chiến.
Tuy đạt được một số kết quả theo
Nghị quyết Huyện uỷ đề ra, nhưng tình hình trong Huyện còn nhiều khó khăn,
thách thức, như đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thất nghiệp và các đối
tượng làm ăn bất chính chưa được giải quyết căn bản. Thuốc men thiếu, dịch bệnh
còn diễn ra ở một số nơi trong Huyện. Phát động quần chúng trong vùng tôn giáo,
vùng dân tộc thiểu số chưa sâu sát. Chính quyền cơ sở được chú ý củng cố nhưng
còn yếu. Vai trò lãnh đạo của một số chi, đảng bộ chưa toàn diện,
còn yếu một số mặt.
Để khắc phục một số mặt yếu, tồn tại và lập thành tích
chào mừng Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ I, Huyện có chủ trương phát động phong
trào thi đua yêu nước với khẩu hiệu “Thi đua lao động sản xuất và thực hành
tiết kiệm” được thể hiện bằng hành động tự giác tham gia lao động. Hưởng ứng
chủ trương này, các ngành, các cấp trong Huyện đã sôi nổi tham gia phong trào
thi đua lập thành tích đạt kết quả thiết thực, tạo động lực làm chuyển biến
tích cực việc khôi phục ổn định dần xã hội sau chiến tranh. Trong đó đáng chú ý
là tập trung đẩy mạnh 3 phong trào làm chủ tập thể của đoàn viên thanh niên, như : phong trào
lao động tình nguyện làm mũi nhọn xung kích trên mặt trận lao động sản xuất,
làm phân xanh, phân chuồng bón ruộng; phong trào khai hoang và phong trào làm
thủy lợi. Qua thực hiện đã có hơn 80 vạn ngày công của đoàn viên thanh niên
tham gia trên các công trường trong Huyện như Bá Ra, Trạm bơm Xuân Quang, khai
hoang các khu kinh tế mới Bá Ghe, La Bá; đồng thời hăng hái tham gia các công
trình thủy lợi của Tỉnh như: Kênh thanh niên Sông Dinh, Lâm Cấm … Với một thời gian ngắn từ những ngày đầu giải phóng
đến cuối năm 1976, trong hoàn cảnh, tình hình còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ
Huyện đã lãnh đạo nhân dân bước đầu ổn định đời sống, phát triển sản xuất, tạo
các tiền đề để bước vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa về kinh tế xã hội
đầu năm 1977, kết thúc giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh.
Giai
đoạn này, Đảng bộ huyện Bắc Bình trãi qua 02 kỳ Đại hội, gồm có:
+ Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ nhất, nhiệm kỳ 1977-1979, tổ chức thành 02 vòng (vòng 01 diễn ra từ ngày 02 đến
ngày 05/11/1976; vòng 2 diễn ra từ ngày 27/5 đến ngày 02/6/1977), có 97/100 đại
biểu chính thức được triệu tập; Đại hội bầu Ban Chấp hành với 31 đồng chí,
trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy 07 đồng chí, đồng chí Nguyễn Ninh- Bí thư Huyện
ủy, các đồng chí Đặng Bá Sang, Phạm Trọng Do – Phó Bí thư.
+ Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ II, nhiệm kỳ 1979-1982, diễn ra từ ngày 16 đến ngày 18/7/1979. Đại hội bầu
Ban Chấp hành với 31 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy 09 đồng chí,
đồng chí Mãn Tấn Dũng- Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đặng Bá Sang- Phó Bí thư
Thường trực Đảng và đồng chí Phạm Trọng Do – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện.
Đến tháng 5/1982, toàn Huyện
có 59 cơ sở đảng (07 đảng bộ và 52 chi bộ) với 884 đảng viên (247 nữ). Trãi qua 8 năm sau ngày giải phóng, đến
tháng 6/1983, huyện Bắc Bình được chia tách thành 02 huyện, gồm: huyện Tuy
Phong và huyện Bắc Bình (mới).
Câu hỏi 5: Vì sao ngày
01/6/1983 được chọn là ngày tái lập Huyện?
Trả lời: Ngày 30/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 204-HĐBT về
việc phân vạch địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh Thuận Hải. Theo Điều
I của Quyết định này, chia huyện Bắc Bình thành huyện Tuy Phong và huyện Bắc
Bình (mới). Ngày đầu mới thành lập, huyện Tuy Phong có 10 xã,
thị trấn, gồm: Phan Rí Cửa, Hòa Phú, Hòa Minh, Chí Công, Liên Hương, Bình
Thạnh, Phước Thể, Vĩnh Hảo, Phú Lạc và Phan Dũng.
Sau khi triển khai thực
hiện Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng về phân chia huyện; Tỉnh ủy và Ủy ban
nhân dân tỉnh đã chỉ định bộ máy lâm thời Cấp uỷ và Chính quyền để lãnh đạo và
điều hành huyện mới:
Về Đảng bộ,
ngày 25/4/1983, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thuận Hải có quyết định chỉ định Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện Tuy Phong, gồm 20 ủy viên chính thức và 01 ủy viên dự
khuyết do đồng chí Trần Thị Xuân Lâm làm Bí thư Huyện ủy.
Về
Chính quyền, ngày 30/5/1983, Hội đồng nhân dân Huyện khóa III, tiến
hành kỳ họp thứ 6 đã thông qua Nghị quyết chia tách thành Hội đồng nhân dân 2
huyện mới; Hội đồng nhân dân huyện Tuy Phong có 33 đại biểu. Đồng thời Hội nghị
công bố các quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh về nhân sự Ủy ban nhân dân 2
huyện, gồm Quyết định số 689/UB-TH và số 692/UB-TH của UBND tỉnh
Thuận Hải về việc chỉ định UBND lâm thời hai huyện Bắc Bình và Tuy Phong. Theo
đó, UBND lâm thời huyện Tuy Phong gồm có 13 đồng chí, do đồng chí Phạm Trọng Do
làm Chủ tịch.
Ngày 01/6/1983, hai huyện Bắc Bình và
Tuy Phong chính thức chia tách và đi vào hoạt động. Mục đích của việc chia
huyện theo chủ trương cấp trên nhằm tạo điều kiện cho mỗi huyện phát huy thế
mạnh, tiềm năng vốn có của mỗi địa phương.
Kể
từ đây, ngày 01/6/1983 được chọn là ngày tái lập huyện Tuy Phong (huyện
Bắc Bình cũng chọn ngày này là ngày tái lập huyện).
Câu hỏi 6: Cơ sở nào để khẳng định: “Nền
kinh tế của huyện
đạt tốc độ tăng trưởng khá, phát triển tương đối toàn diện” ?
Trả lời: Trãi qua 50 năm xây dựng và phát
triển, kinh tế huyện liên tục tăng trưởng, đến nay đạt được kết quả đáng ghi
nhận:
- Kinh tế huyện nhà luôn duy trì mức độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng. Thu ngân sách tăng trưởng mạnh mẽ, năm sau cao hơn năm trước.
Nếu như năm 1983 tổng thu ngân sách huyện chỉ đạt 2,7 tỉ đồng, vừa đủ cho nhu
cầu chi thường xuyên các cơ quan Nhà nước, thì đến năm 2024 thu đạt trên 355 tỉ
đồng/345 tỉ đồng, đạt 106,2% chỉ tiêu tỉnh giao và tăng gấp 132 lần so với năm
1983. Ngoài ra, thu ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp thuộc Trung tâm
nhiệt điện Vĩnh Tân nộp ngân sách tỉnh trên 2.000 tỷ đồng/năm. Từ nguồn thu
Ngân sách Nhà nước, đã chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ dân sinh,
phát triển kinh tế. Nhờ kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
- Các thành phần kinh tế được tạo
điều kiện hoạt động sản xuất kinh
doanh bình đẳng; kinh tế tư nhân và hộ gia đình phát triển mạnh: Hoạt động sản xuất kinh doanh bình
đẳng theo đúng quy định của pháp luật; số lượng doanh nghiệp, kinh tế hộ gia
đình tiếp tục phát triển, ngày càng tăng. Đến cuối năm 2024, toàn Huyện có 331
doanh nghiệp tư nhân với tổng vốn đăng ký là 20.401 tỉ đồng, trong đó, có 06
doanh nghiệp nước ngoài với tổng vốn đăng ký 14.671 tỉ đồng; 9.356 hộ kinh
doanh cá thể với tổng vốn đăng ký hơn 1.842 tỉ đồng. Kinh tế tư nhân và hộ gia
đình đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế -xã hội của Huyện, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người dân.
Câu hỏi 7: Hãy kể tên những công trình, dự án trọng điểm được đầu tư, xây dựng qua 50
năm giải phóng huyện Tuy Phong?
Trả lời: Trong 50 năm xây dựng và phát triển, kinh tế
của Huyện phát triển nhanh, quy mô nền kinh tế được nâng lên, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tích cực; tiềm năng và lợi thế của huyện từng bước được
khai thác và phát huy hiệu quả…là nhờ những công trình, dự án trọng điểm được
đầu tư, xây dựng, như sau:
(1) Các công trình, dự án thuỷ lợi, cung cấp nước sinh hoạt,
sản xuất; nổi bật như: Hồ Sông Lòng Sông, hồ Đá Bạc, hồ Phan Dũng…,việc
đầu tư và đưa vào khai thác các công trình thủy lợi, nhất là Hồ chứa nước Sông
Lòng Sông đã tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục tình
trạng khô hạn, khai thác có hiệu quả các vùng đất hoang hóa, nâng cao năng suất
và thu nhập của người nông dân.
Việc
đầu tư, đưa vào sử dụng các nhà máy nước: Phong Phú, Hoà Minh và Vĩnh Hảo -
Vĩnh Tân. Đặc biệt Nhà máy nước khu vực Vĩnh Hảo- Vĩnh Tân đảm bảo đủ nhu cầu
nước sinh hoạt cho nhân dân 02 xã và phục vụ cho nước sản xuất của các công ty,
xí nghiệp trên địa bàn Vĩnh Hảo- Vĩnh Tân, nhất là Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh
Tân, Cảng Quốc tế Vĩnh Tân.
(2) Các công trình, dự án giao thông hiệu quả, như: Tuyến đường
Quốc lộ 1A được nâng cấp, mở rộng; đầu tư mới các công trình đường giao thông:
Tuyến đường trục ven biển kết nối từ Liên Hương – Phan Rí Cửa – Phan Thiết;
tuyến đường Liên Hương – Phan Dũng; tuyến đường Quốc lộ 1A – Nha Mé, Phong Phú;
Quốc lộ 1A – Cây Cám, Hòa Minh; Quốc lộ 1A –Cửa Sứt, Phước Thể; Quốc lộ 1A –Hầm
Đá- Vĩnh Tiến-Vĩnh Tân; Cầu Sông Luỹ (cầu Hoà Phú); Cầu bắt qua đập tràn xã
Phan Dũng… Các công trình giao thông đã kết nối các vùng sâu, vùng
xa với khu vực trung tâm, khắc phục tình trạng chia cắt ở các khu vực Hòa Phú –
Phan Rí Cửa, Phan Dũng, Cây Cám – Hòa Minh, Cửa Sứt - Phước Thể, Xóm 1C và khu
vực Sân Xe Chùa– Vĩnh Hảo…
Bên
cạnh đó, một số dự án lớn về giao thông đi qua địa bàn huyện đang hoàn thiện,
nhất là Đường bộ cao tốc Bắc – Nam (phía Đông đoạn qua địa bàn huyện) sẽ tạo cơ
hội để huyện thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, phát huy hiệu quả
Cảng quốc tế Vĩnh Tân và phát triển dịch vụ Logistics (là dịch vụ vận chuyển
hàng hoá trung gian, cầu nối giữa doanh nghiệp sản xuất và người mua hàng) tiếp
tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
(3) Các công trình, dự án về điện năng quan trọng, đáng nhớ
của huyện
- Công trình kết nối với điện lưới Quốc gia, năm 1991: Từ cuối năm 1986,
khi tỉnh có chủ trương thi công đường điện cao thế 110 KV Phan Rang - Phan
Thiết và hạ trạm biến thế 65 KV ở xã Hoà Minh; huyện đề nghị tỉnh cho phép xây dựng
đường dây trung thế từ Hoà Minh về huyện cùng đường dây hạ thế và các trạm hạ
thế ở một số nơi trong huyện, để khi tỉnh có điện thì đồng thời huyện cũng có
điện lưới quốc gia. Ngày 13/2/1991 (29 tháng Chạp âm lịch Canh Ngọ), mạng lưới trung, hạ thế
của huyện chính thức nhận được nguồn điện quốc gia qua trạm trung thế Hoà Minh,
kịp phục vụ thắp sáng cho hơn 45 ngàn người dân đón Tết nguyên đán Tân Mùi, Tết
đầu tiên, người dân 04 xã, thị trấn trong huyện (Phan Rí Cửa, Hoà Minh, Chí Công,
Liên Hương) được hưởng nguồn điện quốc gia phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Các năm
sau đó, dòng điện lưới quốc gia tiếp tục đưa về các xã còn lại; xã Phan Dũng là
địa phương nối điện cuối cùng vào năm 2004, ước mơ bao đời của người dân mong
có điện nay đã thành hiện thực.
- Huyện
Tuy Phong hiện nay là một trong những trung tâm năng lượng quốc gia: Hiện
nay, toàn huyện đã đưa vào hoạt động 04 nhà máy nhiệt điện than tại Trung tâm
điện lực Vĩnh Tân với tổng công suất là 4.244 MW; 02 nhà máy điện gió (Phong
điện Thuận Bình và Phong điện Bình Thạnh) với tổng công suất là 80 MW; 11 nhà
máy điện mặt trời với tổng công suất là 308 MW…Việc xây dựng huyện Tuy Phong trở thành trung tâm phát triển mạnh về năng
lượng, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của Tỉnh
* Tất cả các
công trình, dự án nêu trên đã góp phần làm cho quê hương Tuy Phong thay da,
đổi thịt; tạo chuyển biến rõ nét trong
các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng; nâng cao một
bước đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân; đặt nền tảng cho sự phát triển
cao hơn, bền vững hơn của huyện nhà trong tương lai.
Câu hỏi 8: Huyện Tuy Phong được xem
là một trong những trung tâm năng lượng Quốc gia; Hiện nay trên địa bàn Huyện
có bao nhiêu nhà máy điện đã đi vào hoạt động?
Trả lời: Hiện nay, toàn huyện có 17 nhà máy
điện (sở hữu của Nhà nước và tư nhân) đã đưa vào hoạt động, gồm: 04 nhà
máy nhiệt điện than tại Trung tâm điện lực Vĩnh Tân với tổng công suất là 4.244
MW; 02 nhà máy điện gió (Phong điện Thuận Bình và Phong điện Bình Thạnh) với
tổng công suất là 80 MW; 11 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất là 308 MW.
Ngoài ra, còn
có 01 Nhà máy điện gió trên đất liền với công suất 70MW; 04 dự án nhà máy điện
gió trên biển với tổng công suất 8.800MW và
17 dự án điện mặt trời với công suất 1.800MW đã đăng ký khảo sát, nghiên cứu
đầu tư.
Câu hỏi 9: Huyện Tuy
Phong có bao nhiêu di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia và cấp tỉnh?
Trả lời: Huyện Tuy Phong chúng ta, hiện có
14 di tích lịch sử được cấp tỉnh và cấp quốc gia công nhận. Trong đó có 04 di
tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia và 10 di tích lịch sử được công nhận
cấp tỉnh. Cụ thể:
-
04 di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia
(1) Di tích thắng cảnh Cổ Thạch Tự, xã
Bình Thạnh (1993);
(2) Di tích kiến trúc nghệ thuật nhóm
đền tháp Chăm Pô Dam, xã Phú Lạc (1996);
(3) Di tích kiến trúc nghệ thuật đình
Bình An, xã Bình Thạnh (1996);
(4) Di tích kiến trúc nghệ thuật miếu
Quan Thánh, xã Chí Công (2004);
-
10 di tích lịch sử được công nhận cấp tỉnh
(01) Di tích lịch sử -
văn hóa đình Long Hương, TT. Liên Hương
(2008);
(02) Di tích lịch sử - văn hóa vạn Tả Tân, thị trấn Phan Rí Cửa (2008);
(03) Di tích lịch sử - văn hóa miếu Hải Tân, thị trấn Phan Rí Cửa (2008);
(04) Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền
thờ Hùng Vương (2010);
(05) Di tích lịch sử - văn hóa Lăng Ông Nam Hải, xã Bình Thạnh (2011);
(06) Di tích lịch sử - văn hóa chùa Phước An, xã Chí Công (2011);
(07) Di tích lịch sử - văn hóa đình Lâm Lộc, xã Hòa Minh (2013);
(08) Di tích lịch sử - văn hóa chùa Phú Sơn, xã Phú Lạc (2013);
(09) Di tích lịch sử - văn hóa Khu di tích Cát Bay, xã Bình Thạnh (2015);
(10) Di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Pô Nrop, xã Phong Phú (2015).
Câu hỏi 10:
Hãy so sánh hệ thống cơ sở giáo dục trên địa bàn Huyện những năm đầu mới tái
lập Huyện và thực tế hiện nay?
Trả lời: Do
nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo là Quốc sách
hàng đầu nên thời gian qua Đảng bộ,
chính quyền và các tầng lớp Nhân dân trên đại bàn Huyện đã chung tay góp sức
xây dựng, phát triển mạng lưới trường lớp, kiên cố hoá cơ sở dạy và học thường
xuyên, liên tục với quy mô, chất lượng không ngừng được nâng lên, có thể nói hệ
thống cơ sở giáo dục trên địa bàn Huyện những năm đầu mới tái lập đến nay luôn
ngày được quan tâm đầu tư đặc biệt. Có thể so sánh qua các giai đoạn như sau:
(1) Những năm đầu khi mới
tái lập Huyện, cơ sở vật chất của ngành giáo dục còn nhiều thiếu thốn, một số
nơi cơ sở vật chất trường, lớp còn tạm bợ; lực lượng giáo viên các cấp còn
thiếu, có nơi phải học 3 ca; tỷ lệ huy động học sinh ra lớp và chất lượng đào
tạo còn thấp; tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao. Năm 1983, số lượng học sinh phổ
thông của toàn Huyện là 11.484 học sinh, trong đó có 676 cháu học mẫu giáo, nhà
trẻ. Những năm đầu còn khó khăn, toàn Huyện có 02 trường THPT, mỗi trường chỉ
có 06 lớp học và khoản 180 học sinh.
(2) Đến năm học 2023 –
2024, toàn Huyện 56 trường, gồm 02 trường THPT (trường THPT Tuy Phong và trường THPT Hoà Đa), 13 trường THCS, 01
trường Tiểu học và THCS, 26 trường tiểu học, 14 trường mẫu giáo, mầm non. Bên
cạnh đó, có 115 nhóm, lớp giữ trẻ ngoài công lập. Tổng số học sinh phổ thông là
23.636 học sinh, 6613 cháu học mẫu giáo, 961 cháu vào nhà trẻ; ngoài ra còn có
trên 1.800 trẻ học ở các nhóm, lớp tư thục; tỷ lệ huy động học sinh mẫu giáo
đạt 96,7%, học sinh tiểu học đúng độ tuổi đạt 98%; học sinh trung học cơ sở
đúng độ tuổi, đạt 94,8%. Tỷ lệ bỏ học bậc THCS 0,42%, không có học sinh tiểu học
bỏ học. Số trường đạt chuẩn Quốc gia đến năm 2024 là 26/54 trường, đạt 48,1%.
(3) Bên cạnh xây dựng hệ thống mạng
lưới trường, lớp giáo dục phổ thông; công tác đào tạo nghề ngày càng được chú
trọng, trên địa bàn Huyện có 01 cơ sở đào tạo công lập và 01 cơ sở đào tạo
ngoài công lập, cả hai cơ sở này đã tham gia tích cực vào công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn và liên kết đào tạo trình độ từ trung cấp đến đại học,
chú trọng đào tạo gắn kết với nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó còn có 11 trung
tâm học tập cộng đồng của các xã, thị trấn do chính quyền địa phương quản lý;
đã tổ chức nhiều lớp học nghề nông thôn, chuyển giao kiến thức khoa học kỹ
thuật… góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết lao động của
địa phương. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Huyện đạt 73%,
trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng hoặc chứng chỉ đạt 29,39%.
Câu hỏi 11:
Hãy so sánh cơ sở y tế khám chữa bệnh trên địa bàn Huyện những năm đầu mới tái
lập và hiện nay?
Trả lời: Bên
cạnh chăm lo điều kiện
tốt nhất để phát triển sự nghiệp giáo dục; Đảng bộ, chính quyền các cấp cũng
hết sức quan tâm đến xây dựng, phát triển mạng lưới y tế; quan tâm chăm lo sức
khoẻ cho Nhân dân trên địa bàn Huyện. Có thể thấy rõ điều đó qua việc so sánh
các gia đoạn lịch sử của ngành y Huyện nhà như sau:
(1) Những ngày đầu mới thành lập,
ngành y tế Huyện còn khó khăn, thiếu về cơ sở vật chất và cán bộ chuyên môn.
Toàn huyện chỉ có vài cơ sở để điều trị, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ở các
thị trấn đông dân cư như Nhà thương ở Liên Hương, Phòng khám Đa khoa ở Phan Rí cửa;
các xã còn lại chưa có cơ sở y tế công lập
(2) Hiện nay, trên địa bàn huyện có có
01 Trung tâm y tế, 01 phòng khám đa khoa Phan Rí Cửa và trên 10 phòng khám chữa
bệnh tư nhân; 10/10 trạm y tế tại các xã, thị trấn, đạt chuẩn quốc gia;
Tổng số cán bộ, viên chức, người
lao động ngành y tế thống kê đến cuối năm 2023 là 337 người, trong đó: Bác sĩ:
39 người (Chuyên khoa cấp II: 2, Chuyên khoa cấp I:13); Dược sĩ đại học: 08;
Đại học Kỹ thuật y học: 37 (Xét nghiệm: 16, Điều dưỡng: 14, Nữ hộ sinh: 03, Y tế
công cộng: 04).
Câu hỏi 12. Hãy nêu một số kết quả nổi
bật trong việc thực hiện công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm, giảm
nghèo, chăm lo các đối tượng chính sách của huyện ta?
Trả lời: Huyện ta rất quan
tâm công tác an sinh xã hội, đã triển khai thực hiện kịp thời, đầy đủ các chế độ, chính sách
đối với các gia đình có công với cách mạng; các phong trào đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, phong
trào nhận phụng dưỡng, đỡ đầu đã được các cơ quan, đơn vị và nhân dân trong
huyện hướng ứng tích cực; công tác xây dựng, sửa chữa nhà tình nghĩa, chăm lo
nhà ở cho các gia đình có công với cách mạnh được chú trọng thực hiện, cơ bản
các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng không còn nhà ở tạm bợ,
dột nát. Đến năm 2021, Huyện đã đầu tư xây dựng hoàn thành Đền thờ liệt sĩ và
100% xã, thị trấn đều được xây dựng công trình đài tưởng niệm, bia ghi danh các
anh hùng liệt sĩ. Năm 2025, thực hiện theo chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh; Ban
Thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện Tuy Phong đã tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực
hiện, quyết tâm xoá 100% nhà tạm, nhà dột, nát đối với gia đình người có công
cách mạng và các hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn Huyện, để người dân có nơi
ăn, chốn ở ổn định, an toàn.
- Huyện Tuy Phong thực hiện
tương đối tốt công tác giảm nghèo, các phong trào đóng góp xây dựng quỹ “Vì
người nghèo”, phong trào “chung sức chung lòng xây dựng nông thôn mới-không để
ai ở lại phía sau”...được phát động và duy trì thường xuyên. Các dự án, chính
sách giảm nghèo được thực hiện có hiệu quả như: Xây dựng kết cấu hạ tầng cho xã
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ hộ nghèo có điều kiện
phát triển sản xuất; chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo gắn với hướng dẫn
cách làm ăn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; thực hiện đảm bảo các chính sách về
y tế, giáo dục, hỗ trợ nhà ở, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động
thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và trợ cấp xã hội
khác... Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều đạt chỉ tiêu đề ra, đến năm
2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện còn 1,28% (489 hộ), tạo điều kiện thuận lợi cho
người nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Bên cạnh đó, huyện còn thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội, các
đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện đều được hưởng chính sách trợ giúp xã hội
theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi để các nhóm đối tượng yếu thế được tiếp
cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản; giải quyết việc làm được Huyện quan tâm
thực hiện, bình quân giai đoạn 2020 – 2024 giải quyết việc làm cho 2.200 lao động/năm.
Câu hỏi 13: Khi mới tái lập huyện,
Tuy Phong có bao nhiêu xã, thị trấn; tổng dân số bao nhiêu người ? Hiện nay,
huyện Tuy Phong có bao nhiêu xã, thị trấn; tổng dân số bao nhiêu người ? Bao
nhiêu xã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận công nhận xã đạt chuẩn nông thôn
mới ?
Trả lời:
(1) Năm 1983, khi mới tái lập Huyện, Tuy Phong có 10 xã, thị trấn, gồm:
Phan Rí Cửa, Hòa Phú, Hòa Minh, Chí Công, Liên Hương, Bình Thạnh, Phước Thể,
Vĩnh Hảo, Phú Lạc và Phan Dũng. Tổng dân số toàn huyện lúc ấy là 100.368 người với 07 dân tộc anh
em là Kinh, Chăm, Tày, Hoa, Rắc Lây, Nùng, K’ho cùng sinh sống.
Đến năm 1987, xã Phong Phú được thành lập (tách ra từ xã Phú Lạc); Năm
2003, xã Vĩnh Tân được thành lập (tách
ra từ xã Vĩnh Hảo); Đầu năm 2020, xã Hòa Phú được sáp nhập vào thị trấn Phan Rí
Cửa.
(2) Hiện nay, huyện Tuy Phong có 11 xã, thị trấn, gồm thị trấn Phan
Rí Cửa, thị trấn Liên Hương và 09 xã: Hòa Minh, Chí Công, Bình Thạnh, Phước
Thể, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phú Lạc, Phong Phú và Phan Dũng. Tổng dân số đến cuối
năm 2024 là 148.868 người, với 11 dân tộc anh em cùng sinh sống. Ngoài 07 dân
tộc như năm 1983: Kinh, Chăm, Tày, Hoa, Rắc lây, Nùng, K’ho; Huyện ta có thêm 04
dân tộc đến sinh sống là Khmer, Thái, Kháng, Mường.
(3) Tính đến
năm 2024, huyện Tuy Phong có 06/9 xã được Tỉnh công nhận chuẩn nông thôn mới, gồm: Bình Thạnh, Hoà Minh, Phước Thể, Vĩnh
Hảo, Vĩnh Tân, Phú Lạc. Năm 2025, huyện đã đang tập trung xây dựng xã
đạt chuẩn nông thôn mới đối với một trong hai xã là Phong Phú hoặc Chí Công.
Câu
hỏi 14: Từ khi tái lập
huyện đến nay, đảng bộ huyện Tuy Phong đã tổ chức bao nhiêu kỳ Đại hội? thời
gian diễn ra từng kỳ Đại hội?
Trả lời: Khi mới chia tách huyện
năm1983, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thuận Hải có quyết định chỉ định Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện Tuy Phong gồm 20
ủy viên chính thức và 01 ủy viên dự khuyết do Đồng chí Trần Thị Xuân Lâm làm Bí
thư Huyện ủy.
Từ
năm 1986 đến nay, Đảng bộ huyện Tuy Phong đã tổ chức 09 kỳ Đại hội. Cụ thể:
- Đại hội lần thứ I, Nhiệm kỳ
1986-1989, chính thức diễn ra từ ngày 23 đến ngày 25/9/1986 tại hội trường UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 36
đồng chí; bầu đồng chí Nguyễn Văn Hương, làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ II, Nhiệm kỳ 1989 -1991, chính thức
diễn ra từ ngày 23 đến ngày 24/4/1989 tại hội trường UBND huyện Tuy
Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 31 đồng chí; đồng chí Nguyễn Văn Hương,
tái cử chức vụ Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ III,
Nhiệm kỳ 1991-1996, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15/11/1991, tại hội trường UBND huyện Tuy
Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 33 đồng chí; bầu đồng chí Phạm Trọng Do,
làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ IV,
Nhiệm kỳ 1996-2000, chính thức diễn ra từ ngày 26 đến ngày 27/4/1996 tại hội trường UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 33
đồng chí; đồng chí Phạm Trọng Do, tái cử chức vụ Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ V, Nhiệm kỳ 2000 - 2005, chính thức diễn ra từ ngày 06 đến ngày 08/12/2000 tại hội
trường UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 33 đồng chí; bầu đồng
chí Phạm Trọng Tình, làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ VI, Nhiệm kỳ 2005-
2010, chính thức diễn ra từ ngày 12 đến
ngày 14/10/2005 tại hội trường UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH
Đảng bộ có 39 đồng chí; bầu đồng chí Trần Văn Nhựt, làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ VII, Nhiệm kỳ 2010 - 2015, chính thức diễn ra từ ngày 18 đến ngày 20/8/2010 tại hội trường UBND
huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 39 đồng chí; bầu đồng chí
Phạm Ngọc Long, làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ VIII, Nhiệm kỳ 2015 - 2020, chính thức diễn ra từ ngày 19/8 đến ngày 21/8/2015 tại hội trường
UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 39 đồng chí; bầu đồng chí
Nguyễn Dân, làm Bí thư Huyện uỷ.
- Đại hội lần thứ IX, Nhiệm kỳ 2020 - 2025, chính thức diễn ra từ ngày 10/8 đến ngày 12/8/2020 tại hội trường
UBND huyện Tuy Phong. Đại hội bầu ra BCH Đảng bộ có 37 đồng chí; đồng chí Nguyễn
Dân, tái cử chức vụ Bí thư Huyện uỷ.
Câu hỏi 15: Hãy nêu một số kết quả nổi bật về
công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận trên địa bàn huyện sau 50 năm giải
phóng ?
Trả lời: Những năm qua, công
tác xây dựng Đảng, công tác dân vận được toàn Đảng bộ huyện chú ý lãnh đạo, chỉ
đạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của Huyện nhà. Sau giải phóng năm 1975, toàn huyện Bắc Bình có 48 cơ sở đảng với 537 đảng
viên (có 231 nữ). Đến tháng 5/1982, toàn Huyện có 59 cơ sở đảng (07 đảng bộ và
52 chi bộ) với 884 đảng viên (247 nữ). Năm 1983, Sau khi chia tách huyện Bắc Bình thành
huyện Tuy Phong và huyện bắc Bình (mới) toàn Đảng bộ huyện Tuy Phong có 31
cơ sở Đảng, tổng số đảng viên hơn 400 đồng chí. Đến quý I năm 2025, sau khi sáp nhập một số chi bộ cơ
sở, toàn Đảng bộ huyện có 57 chi bộ, đảng bộ cơ sở (37 chi bộ, 20
đảng bộ cơ sở với 196 chi bộ trực thuộc), 3.855 đảng viên (tăng gấp 9,6 lần so năm
1983).
Công tác chính trị tư tưởng được quan tâm đẩy mạnh; việc kiểm tra, giám sát
được chú trọng thường xuyên; chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở
đảng ngày càng được nâng lên. Đa số đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức, gương
mẫu trong chấp hành pháp luật Nhà nước; trình độ học vấn, trình độ chính trị,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao; sự đoàn kết nhất trí
trong toàn Đảng bộ luôn được coi trọng, giữ gìn. Việc đánh giá xếp loại tổ chức
cơ sở đảng và đảng viên ngày càng đi vào thực chất; những năm gần đây tỉ lệ xếp
loại tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt không ngừng được nâng lên. Năm 2024 có 49/60 tổ chức cơ sở đảng xếp loại hoàn thành tốt
trở lên, chiếm tỉ lệ 81,7% %. Công tác biên soạn Lịch sử Đảng bộ được
quan tâm; Huyện đã biên soạn 03 Tập lịch sử phản ánh 03 giai đoạn lịch sử: giai đoạn 1930-1945; giai đoạn 1945-1975;
giai đoạn 1975-2000 và hiện nay đang phấn đấu hoàn thành biên soạn tập lịch sử
Đảng bộ Huyện, giai đoạn 2000-2025, phản ánh quá trình 25 năm xây dựng và phát
triển của Địa phương giai đoạn sau đổi mới.
Công tác dân vận, nhất là “dân vận khéo” chuyển biến rõ nét; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội tiếp tục hướng về cơ sở, phát huy dân chủ, phát động và tổ chức các cuộc vận động,
phong trào thi đua yêu nước thiết thực với các mô hình hay góp phần thực hiện tốt
các chỉ tiêu chủ yếu, nhiệm vụ trọng tâm của huyện. Quan tâm vận động các nguồn lực tổ chức nhiều chương trình, hoạt động hỗ
trợ, chăm lo cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, đoàn viên, hội viên, người lao động, học sinh có
hoàn cảnh khó khăn và Nhân dân. Nắm tình hình,
diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân và phối
hợp giải quyết các vụ việc nổi lên ở cơ sở; tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
hoàn thành
kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hàng năm.
Câu hỏi 16: Hãy nêu một số nét nổi bật về công
tác xây dựng chính quyền trên địa bàn huyện sau 50 năm giải phóng ?
Trả lời: Bên cạnh quan tâm công tác xây dựng
Đảng, công tác dân vận; Đảng bộ huyện rất tập trung, thường xuyên công tác xây
dựng chính quyền các cấp; các cơ quan nhà nước từ huyện đến xã, thị trấn được
sắp xếp, củng cố từng bước tinh gọn; chất lượng, năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên,
100% đạt chuẩn theo quy định; có nhiều cố gắng trong việc thực hiện cải
cách hành chính; chú trọng công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí;
thường xuyên đối thoại và giải quyết có hiệu quả đơn thư của công dân...thể hiện
ngày càng rõ hơn bản chất Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”; luôn chú ý củng cố kiện toàn, tập trung quản lý
điều hành các hoạt động, thực hiện có kết quả các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng
năm. Cán bộ công chức, viên chức ngày càng trưởng thành về tư tưởng chính trị,
chuẩn hóa về kiến thức trình độ chuyên môn, từng bước nâng cao năng lực công
tác và tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ Nhân dân.
Câu hỏi 17: Hãy nêu một số tiềm năng, lợi thế và triển vọng
phát triển của huyện Tuy Phong trong những năm đến?
Trả lời: Tuy Phong là huyện có vị trí địa lý
tương đối thuận lợi: Giáp ranh với hai tỉnh Ninh Thuận và Lâm Đồng; có đường
cao tốc Bắc - Nam, Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam đi qua, có Cảng quốc tế
Vĩnh Tân. Huyện ta có bờ biển dài trên 50 km với nhiều bãi biển phong cảnh đẹp, cùng cảnh đẹp thiên nhiên mang dấu ấn
của Tuy Phong như thác Tân Cung, thác Yavly, rừng nguyên sinh Tà Hoàng, đồi hoa
Bằng lăng, bãi đá Cà Dược, đồi cát trắng, bãi rêu Bình Thạnh… và các công trình
di tích văn hóa như Chùa Cổ Thạch, Chùa Linh Sơn tự, Đình Bình An, Đền tháp
Chăm Pô Dam, khu di tích Cát Bay, Đền thờ Hùng Vương…Bên cạnh đó còn có cung đường du lịch nổi tiếng Tà Năng – Phan Dũng, Hoà Thắng-
Hoà Phú; có đảo Hòn Cau nằm trong Khu bảo tồn biển Hòn Cau, ...là lợi thế để
phát triển du lịch. Tuy Phong là một trong 03 ngư trường lớn nhất của tỉnh về
nguồn lợi hải sản, đặc sản có giá trị kinh tế cao;...
Với vị trí địa lý tương đối thuận lợi như trên,
huyện Tuy Phong có tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
trong thời gian tới, cụ thể là:
1- Hệ thống
giao thông đối ngoại tương đối thuận lợi (đường bộ cao tốc Bắc – Nam, Quốc lộ
1A, đường sắt Bắc - Nam, tuyến đường ven biển của tỉnh) dễ dàng kết nối với khu
vực trung tâm của tỉnh và vùng Đông Nam bộ, là cửa ngõ kết nối của tỉnh với
vùng duyên hải Miền Trung. Cảng quốc tế Vĩnh Tân đã đưa vào hoạt động tạo điều
kiện tiếp nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu từ các tỉnh Tây Nguyên; Khu Công nghiệp
Tuy Phong đang được đầu tư hạ tầng, trong thời gian tới sẽ thu hút các nhà đầu
tư thứ cấp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thuận lợi phát triển ngành công
nghiệp trên địa bàn huyện và phát triển dịch vụ Logicstics;
2- Số giờ nắng
và lượng gió trong năm tương đối lớn, chiều dài bờ biển và diện tích biển khá
lớn, thuận lợi cho phát triển năng lượng tái tạo, nhất là điện mặt trời, điện
gió ngoài khơi và phát triển công nghiệp phụ trợ ngành năng lượng;
3- Thời tiết
nắng ấm quanh năm, bờ biển dài, có đảo Hòn Cau, phong cảnh đẹp, hoang sơ; cung
đường du lịch nổi tiếng Tà Năng – Phan Dũng, cung đường Hòa Tháng- Hòa Phú xinh
đẹp... là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch;
4- Ngư trường
lớn, nhiều loài hải, đặc sản có giá trị kinh tế cao; ngư dân có truyền thống và
kinh nghiệm khai thác hải sản gắn với ứng dụng công nghệ hiện đại, thuận lợi
cho phát triển ngành kinh tế biển như khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn
với công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, sản xuất tôm giống là thế mạnh của huyện
Tuy Phong, chất lượng và thương hiệu đã được khẳng định. Với diện tích biển
lớn, thuận lợi cho ngành nuôi trồng thủy sản, phù hợp với xu thế phát triển của
ngành thủy sản. Hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất ngày càng được quan tâm đầu
tư, cơ bản chủ động được nước tưới, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp, nhất là các cây trồng có lợi thế của huyện như cây nho, cây táo, các
loại cây dược liệu, tảo spirulina,…
5- Lực lượng
lao động dồi dào, cần cù, chịu khó; chất lượng nguồn nhân lực từng bước được
nâng lên, là nguồn lực quan trọng để cung ứng cho các doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh;
6- Với dân số
tương đối đông, sinh sống tập trung ở hai thị trấn và các xã
đồng
bằng, ven biển, là thị trường tiêu thụ nội địa tiềm năng, hoạt động thương
mại -
dịch vụ có điều kiện phát triển nhanh. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã
tiếp
tục ban hành Đề án “Đẩy nhanh tốc độ
phát triển dịch vụ, nhất là thương mại và du lịch” trong giai
đoạn 2021 – 2025 đã tạo điều kiện cho hoạt động thương mại, dịch vụ của huyện
phát triển nhanh hơn trong giai đoạn tới.
Câu
hỏi 18: Hãy nêu các nhiệm vụ trọng tâm và lĩnh vực đột phá cần tập trung lãnh đạo thực hiện đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030 của Đảng bộ huyện Tuy Phong ?
Trả lời: Để
lãnh đạo thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị trong thời gian tới, Đảng
bộ huyện Tuy Phong đang tập trung thực hiện 05 nhiệm vụ trọng tâm và 02 nhiệm
vụ đột phá do Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX, nhiệm kỳ
2020-2025 đề ra, sau đây:
1.
Về nhiệm vụ trọng tâm: Có 05 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện
(1).
Nâng cao chất lượng, tạo sự chuyển biến rõ nét trong hoạt động của hệ
thống chính trị từ huyện đến cơ sở, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều
hành,
quản lý của chính quyền các cấp gắn với sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và cán
bộ, công chức của hệ thống chính trị. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với đẩy
mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng, đạo đức
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(2). Huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư
phát triển; khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của huyện,
tập trung phát triển kinh tế biển, hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển công nghiệp
năng lượng. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai, trật tự xây dựng,
trật tự đô thị, khoáng sản và bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, phòng chống thiên tai. Thực hiện hiệu quả tái cơ cấu ngành nông
nghiệp.
(3).
Thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính; khuyến khích tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi để doanh nghiệp, người dân đầu tư, kinh doanh.
(4).
Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
(5).
Kịp thời giải quyết có hiệu quả những bức xúc về mặt xã hội. Quan tâm chăm lo,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, chú ý vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng ven biển.
2.
Về các nhiệm vụ, lĩnh vực đột phá: Có 02 đột phá cần thực hiện
(1).
Tiếp tục “Đẩy nhanh tốc độ phát triển dịch vụ, nhất là thương mại và
du lịch” đồng bộ, chất lượng, hiệu quả toàn diện hơn.
(2).
Tạo chuyển biến tích cực, rõ nét về nhận thức và hành động của cán
bộ, nhân dân và các doanh nghiệp về công tác bảo vệ môi trường, nhất là Trung
tâm nhiệt điện Vĩnh Tân; xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp trong các đô thị,
khu dân cư tập trung, khu du lịch, các cơ quan, doanh nghiệp.
BAN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ, KHOÁ IX