ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG HUYỆN TUY PHONG (17/4/1975 - 17/4/2025)

 

I- KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH

1. Tình hình kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của huyện Tuy Phong những năm đầu, sau giải phóng.

Tháng 01 năm 1975, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Bình Thuận, các địa phương nắm chắc thời cơ, thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa theo phương châm tự lực, tự cường “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Theo tinh thần đó, Huyện ủy các huyện Tuy Phong, Hoà Đa, Phan Lý, Hải Ninh chỉ đạo cho các xã, các đội công tác tổ chức lực lượng tại chỗ, thành lập ban khởi nghĩa địa phương và phân công các đoàn thể, từng bộ phận chuẩn bị, để khi có thời cơ thì nhất tề đứng lên giành chính quyền, làm chủ quê hương. Lực lượng chính trị trong vùng địch được xây dựng; bộ đội địa phương và du kích sẵn sàng áp sát các xã, ấp của địch.

Nghe tin tỉnh Ninh Thuận đã được quân, dân ta giải phóng vào ngày 16/4/1975 và cánh quân Duyên hải- Quân đoàn II đang tiến vào Phan Thiết-Bình Thuận, làm cho địch ở các huyện Tuy Phong, Hoà Đa, Phan Lý, Hải Ninh hoàn toàn rệu rã, có người bỏ việc hoặc làm việc cầm chừng. Chỉ một số ít bọn đầu sỏ vẫn còn ngoan cố, một mặt muốn ra sức chặn đường tiến quân của ta, mặt khác lại ra lệnh đốt hồ sơ tài liệu và chuẩn bị tìm đường tháo chạy.

Sau khi đánh địch ở Cà Ná, cánh quân Duyên hải-Quân đoàn II tiến đến ngã tư Liên Hương vào chiều ngày 17/4/1975, không gặp sự kháng cự nào vì lực lượng địch  tại Chi khu quận lỵ Tuy Phong của địch đã bỏ súng, chạy trốn xuống hướng biển từ sáng sớm. Nắm được thời cơ đó, đêm 17/4/1975 Huyện ủy Tuy Phong khẩn trương tổ chức phối hợp lực lượng, đến 4 giờ sáng ngày 18/4/1975 tiến vào tiếp quản quận lỵ Tuy Phong. Sau đó lần lượt các xã vùng tạm bị chiếm của huyện Tuy Phong  đứng lên giành chính quyền. Tối 21/4/1975, tại trường Bồ Đề (nay là Trường Mầm non Hoa Phượng, tại thị trấn Liên Hương), huyện Tuy Phong tổ chức lễ ra mắt Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Huyện gồm 8 uỷ viên, do đồng chí Phạm Trọng Do, Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ làm Chủ tịch. Bộ máy chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã, thôn cũng được thành lập và lần lượt ra mắt nhân dân vào những ngày cuối tháng 4/1975.             

Sau thắng lợi của cách mạng miền Nam, cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để thống nhất tổ chức hành chính trong cả nước, Trung ương quyết định giải thể các khu, sáp nhập một số tỉnh thành mới. Đối với Khu VI, tháng 10/1975, giải thể lập thành tỉnh Thuận Lâm. Nhưng do địa bàn rộng lớn, đầu năm 1976, tỉnh Thuận Lâm được chia thành hai tỉnh Lâm Đồng và Thuận Hải (trong đó tỉnh Thuận Hải gồm có các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy). Tháng 2/1976, hợp nhất 4 huyện, gồm: Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong thành huyện Bắc Bình, toàn huyện có 29 xã. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ huyện Bắc Bình gồm 21 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy có 07 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Ninh, làm Bí thư Huyện ủy. Ủy ban nhân dân cách mạng huyện, gồm 09 đồng chí, do đồng chí Bùi Quốc Thắng làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Trọng Do làm Phó Chủ tịch huyện.

Toàn huyện Bắc Bình, có 3 vùng rõ rệt: đồng bằng, miền núi, ven biển. Ngoài ra, có đảo Phú Quý cách xa đất liền hơn 100 km. Địa giới của Huyện, phía Bắc giáp huyện Ninh Phước, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp huyện Hàm Thuận, phía Đông và Nam giáp biển. Dân số có 143.339 người, gồm các dân tộc: Kinh, Chăm, K’Ho, Raglai, Hoa, Tày, Nùng,…Đa số dân sống tập trung ở đồng bằng dọc 2 bên quốc lộ 1A, đông nhất ở thị trấn và miền biển.

Khi sáp nhập, cơ sở hạ tầng cơ bản như điện, đường, trường trạm, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Giai đoạn này, Huyện chú trọng khôi phục, đẩy mạnh sản xuất lương thực đảm bảo nhu cầu đời sống cho Nhân dân, ưu tiên cây lương thực chính vụ (lúa, bắp, đậu, mì, khoai lang…) xây dựng vùng chuyên canh cây thuốc lá (xã Vĩnh Hảo). Khôi phục và phát triển nghề đánh bắt cá biển, chế biến hải sản, nghề muối, phát triển chăn nuôi. Thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một số cơ sở kinh tế quốc doanh, xây dựng cơ sở kinh tế tập thể với các hình thức tổ hợp tác để phát triển sản xuất ngày càng cao hơn.

- Về kinh tế, thực hiện mô hình hợp tác xã. Toàn Huyện chỉ gieo cấy 530 ha lúa ngắn ngày, 120 ha thuốc lá, 6.100 ha màu các loại, làm mới và tu bổ 19 đập nước lớn nhỏ, năng suất lúa trung bình 4 tấn/ha; thành lập Ban Chỉ đạo vùng kinh tế mới La Bá (đưa 100 hộ dân ở Liên Hương đến sinh sống, sản xuất); tháng 4/1979, thành lập hợp tác xã nông nghiệp Bình Điền - mô hình hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của huyện Tuy Phong. Về kinh tế biển, triển khai các hoạt động khai thác, đánh bắt hải sản, làm muối, chế biến nước mắm (vùng Liên Hương, Phan Rí Cửa, Chí Công), thời điểm này, Phan Rí Cửa đã có điện (máy nổ phát điện), có cơ sở công nghiệp nhỏ nên hình thành một số cơ sở chế biến lương thực- thực phẩm nhỏ; thực hiện phong trào hợp tác hóa vùng biển. Trước đó, vào tháng 9/1975, theo chỉ đạo của cấp trên, Huyện ta thực hiện việc đổi tiền chế độ cũ ở miền Nam để lưu thông tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi là tiền giải phóng); tổ chức các hợp tác xã mua bán.

- Về y tế, Huyện khẩn trương tổ chức tiếp quản Trung khu y tế Hoà Đa tại xã Phan Rí Cửa để thành lập Bệnh viện Huyện. Các y tá, y sĩ ở chiến khu về làm việc ngay, bên cạnh đó ta tuyển dụng số y- bác sĩ chế độ cũ vào làm việc nhằm chữa bệnh cho nhân dân. Để tăng cường đội ngũ chuyên môn, Huyện mở lớp đào tạo cấp tốc 40 y tá đưa về công tác tại Trạm y tế các xã: Chí Công, Hòa Minh, Phan Rí Thành, Chợ Lầu, Lương Sơn, Hòa Thắng. Ngoài ra, Huyện còn tổ chức các tổ y tế lưu động đi khám, chữa bệnh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, miền núi. Tuy có khó khăn về đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế nhưng công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân đã có Đảng và Nhà nước quan tâm. Các xã vùng đồng bằng đều có trạm y tế và nhà hộ sinh, các thị trấn có trạm xá phục vụ khám chữa bệnh, cấp thuốc (chủ yếu là trị bệnh sốt rét) miễn phí cho người dân. Đến năm 1980, toàn huyện có 01 bệnh viện (được tổ chức quốc tế UNICEF viện trợ đầu tư cuối năm 1979), 02 phòng khám khu vực, 24/29 xã có trạm y tế, các khoa phòng của Bệnh viện huyện được trang bị các thiết bị y tế đồng bộ, đảm bảo chất lượng khám, điều trị cấp cứu đạt kết quả cao, kết hợp đông- tây y trong điều trị bệnh… góp phần nâng chất lượng công tác khám, chữa bệnh,

-Về giáo dục, hoạt động tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng việc dạy và học tiếp tục được duy trì. Để giải quyết những khó khăn trước mắt, ngoài số giáo viên ở căn cứ về, ta xem xét tuyển dụng giáo viên chế độ cũ; mặt khác, tổ chức khoá sư phạm cấp tốc đào tạo giáo viên tại chỗ và xin chi viện giáo viên từ miền Bắc vào. Đồng thời ngành giáo dục Huyện tiến hành tổ chức các lớp tập huấn chính trị, chương trình và phương pháp giảng dạy mới cho giáo viên. Để giải quyết tình trạng mù chữ, thất học, Huyện tiếp tục chỉ đạo cho các xã mở các lớp xoá mù chữ, bình dân học vụ, bổ túc văn hóa với phương châm “nơi nào có dân là nơi đó có lớp học”; phần lớn là số người có độ tuổi từ 20 đến 40 tham gia học tập. Tuy lúc bấy giờ điều kiện trường lớp còn khó khăn, nhưng bố trí đầy đủ các lớp học từ mẫu giáo đến cấp III. Đến năm 1982, chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ tốt nghiệp cấp III đạt 100%, có 7 học sinh đạt học sinh giỏi toàn quốc, 14 học sinh giỏi cấp tỉnh, 123 học sinh giỏi cấp huyện.

-Về hoạt động thông tin, văn hóa, văn nghệ chủ yếu tận dụng những cơ sở vật chất còn sót lại sau chiến tranh, thực hiện theo phương châm “cây nhà lá vườn”, hầu như nơi nào cũng thành lập đội văn nghệ và tự dàn dựng những chương trình biểu diễn phục vụ Nhân dân. Tuy khó khăn vậy, nhưng cũng có nhiều tiết mục mang nội dung phong phú, ý nghĩa như ca ngợi Đảng, Bác Hồ, tôn vinh sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ, phê phán hủ tục mê tín dị đoan, hướng người dân xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ, nhờ thực hiện chủ trương quốc hữu hóa, Huyện có 05 rạp chiếu bóng ở các xã Phan Rí Cửa, Sông Mao, Liên Hương, Chợ Lầu, Lương Sơn, các thư viện, tủ sách, các cửa hiệu, quầy hàng bán sách… phục vụ đời sống tinh thần cho Nhân dân; các hoạt động vận tải, thương nghiệp bước đầu hình thành phục vụ nhu cầu đi lại, đời sống Nhân dân. Đến năm 1982, ngoài Đài truyền thanh Huyện phát sóng trong bán kính 10km, còn có 13 đài truyền thanh xã và 39 trạm truyền thanh của hợp tác xã; các xã vùng sâu, vùng cao, miền núi, các xã căn cứ kháng chiến được trang bị ampli, máy nổ, loa…, một số xã thành lập đội văn nghệ thôn để phục vụ Nhân dân.

-Về quốc phòng an ninh: Trong giai đoạn này, công tác an ninh có nhiều diễn biến phức tạp, một số tàn quân, ngụy quân và một số đối tượng phản động đội lốt tôn giáo phao tin đồn nhảm nhằm kích động, gây chia rẽ Nhân dân…Trước tình hình đó, Huyện đã phát động quần chúng phối hợp với các lực lượng an ninh, quân sự liên tục tấn công, truy quét, trấn áp bọn lưu manh, côn đồ, bọn phản động âm mưu cướp vũ khí trốn ra rừng, bỏ chạy trốn ra nước ngoài. Bằng các biện pháp quân sự-chính trị-an ninh kết hợp với  thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Huyện đã tổ chức truy bắt hàng trăm tên trốn trình diện, cải tạo, bọn tàn quân lẫn trốn; buộc bọn Phun- rô (FULRO) ngoài rừng về đầu hàng, cùng với các cơ sở bí mật của chúng ở một số thôn xóm lần lượt ra đầu thú; chặn bắt các vụ vượt biển trốn đi nước ngoài; bảo đảm các ngày lễ, hội họp, bầu cử Quốc hội được an toàn.  Đến năm 1982, công tác quốc phòng đạt được một số kết quả toàn diện hơn, đã xây dựng và từng bước củng cố phương án tác chiến phòng thủ tại chỗ, thành lập 07 cụm chiến đấu liên hoàn trên các tuyến biển, vùng giáp ranh và những địa bàn xung yếu. Đặc biệt, gần 1.000 đoàn viên, thanh niên xung phong tình nguyện lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia.

-Về công tác xây dựng Đảng: Sau khi sáp nhập 4 huyện thành lập huyện Bắc Bình, toàn Huyện có 52 chi bộ, 499 đảng viên. Đến tháng 6/1976, toàn Huyện có 57 chi đảng bộ, 640 đảng viên; trong đó có 16 chi bộ xã, chi bộ nhỏ có ở 26 thôn, 3 chi bộ xã người Chăm, 3 chi bộ xã vùng cao-miền núi và một chi bộ xã người Hoa. Trong 6 tháng đầu năm 1976, kết nạp được 26 đảng viên mới và phục hồi đảng tịch cho 21 đảng viên bị bắt, bị tù trong kháng chiến.

 Tuy đạt được một số kết quả theo Nghị quyết Huyện uỷ đề ra, nhưng tình hình trong Huyện còn nhiều khó khăn, thách thức, như đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thất nghiệp và các đối tượng làm ăn bất chính chưa được giải quyết căn bản. Thuốc men thiếu, dịch bệnh còn diễn ra ở một số nơi trong Huyện. Phát động quần chúng trong vùng tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số chưa sâu sát. Chính quyền cơ sở được chú ý củng cố nhưng còn yếu. Vai trò lãnh đạo của một số chi, đảng bộ chưa toàn diện, còn  yếu một số mặt.

Để khắc phục một số mặt yếu, tồn tại và lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ I, Huyện có chủ trương phát động phong trào thi đua yêu nước với khẩu hiệu “Thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm” được thể hiện bằng hành động tự giác tham gia lao động. Hưởng ứng chủ trương này, các ngành, các cấp trong Huyện đã sôi nổi tham gia phong trào thi đua lập thành tích đạt kết quả thiết thực, tạo động lực làm chuyển biến tích cực việc khôi phục ổn định dần xã hội sau chiến tranh. Trong đó đáng chú ý là tập trung đẩy mạnh 3 phong trào làm chủ tập thể của đoàn viên thanh niên như : phong trào lao động tình nguyện làm mũi nhọn xung kích trên mặt trận lao động sản xuất, làm phân xanh, phân chuồng bón ruộng; phong trào khai hoang và phong trào làm thủy lợi. Qua thực hiện đã có hơn 80 vạn ngày công của đoàn viên thanh niên tham gia trên các công trường trong Huyện như Bá Ra, Trạm bơm Xuân Quang, khai hoang các khu kinh tế mới Bá Ghe, La Bá; đồng thời hăng hái tham gia các công trình thủy lợi của Tỉnh như: Kênh thanh niên Sông Dinh, Lâm Cấm … Với một thời gian ngắn từ những ngày đầu giải phóng đến cuối năm 1976, trong hoàn cảnh, tình hình còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ Huyện đã lãnh đạo nhân dân bước đầu ổn định đời sống, phát triển sản xuất, tạo các tiền đề để bước vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa về kinh tế xã hội đầu năm 1977, kết thúc giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh.  

Giai đoạn này, Đảng bộ huyện Bắc Bình trãi qua 02 kỳ Đại hội, gồm có:

+ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất, nhiệm kỳ 1977-1979, tổ chức thành 02 vòng,  (vòng 01 diễn ra từ ngày 02 đến ngày 05/11/1976; vòng 2 diễn ra từ ngày 27/5 đến ngày 02/6/1977), có 97/100 đại biểu chính thức được triệu tập; Đại hội bầu Ban Chấp hành với 31 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy 07 đồng chí, đồng chí Nguyễn Ninh- Bí thư Huyện ủy, các đồng chí Đặng Bá Sang, Phạm Trọng Do – Phó Bí thư.

+ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, nhiệm kỳ 1979-1982, diễn ra từ ngày 16 đến ngày 18/7/1979. Đại hội bầu Ban Chấp hành với 31 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy 09 đồng chí, đồng chí Mãn Tấn Dũng- Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đặng Bá Sang- Phó Bí thư Thường trực Đảng và đồng chí Phạm Trọng Do – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.

- Trãi qua 8 năm sau ngày giải phóng, đến tháng 6/1983, huyện Bắc Bình được chia tách thành 02 huyện, gồm: huyện Tuy Phong và huyện Bắc Bình (mới).

2. Lịch sử hình thành huyện Tuy Phong sau ngày chia tách

Ngày 30/12/1982 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 204-HĐBT,về
việc phân vạch địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh Thuận Hải. Theo Điều I của
Quyết định này, chia huyện Bắc Bình thành huyện Tuy Phong và huyện Bắc Bình
(mới). Ngày đầu mới thành lập, huyện Tuy Phong có 10 xã, thị trấn, gồm: Phan Rí
Cửa, Hòa Phú, Hòa Minh, Chí Công, Liên Hương, Bình Thạnh, Phước Thể, Vĩnh
Hảo, Phú Lạc và Phan Dũng

Sau khi triển khai thực hiện Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng về phân chia
huyện, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ định bộ máy lâm thời Cấp uỷ và
Chính quyền để lãnh đạo và điều hành huyện mới:

Về Đảng bộ, ngày 25/4/1983, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thuận Hải
quyết định chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tuy Phong gồm 20 ủy viên chính
thức và 01 ủy viên dự khuyết do Đồng chí Trần Thị Xuân Lâm, làm Bí thư Huyện ủy. Về chính quyền, ngày 30/5/1983, Hội nghị Hội đồng nhân dân Huyện khoá
III, tiến hành kỳ họp thứ 6 đã thông qua Nghị quyết chia tách thành Hội đồng nhân
dân 2 huyện mới, trong đó Hội đồng nhân dân huyện Bắc Bình (mới) khoá III gồm có
30 đại biểu và Hội đồng nhân dân huyện Tuy Phong gồm 33 đại biểu. Đồng thời Hội
nghị công bố các quyết định, chỉ thị của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân Tỉnh về nhân sự
Ủy ban nhân dân 2 huyện, gồm Quyết định số 303-QĐ/TU, ngày 20/11/1982 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Thuận Hải; Chỉ thị 12 của UBND tỉnh, Quyết định số 689/UBTH và số 692/UB-TH của UBND tỉnh Thuận Hải về việc chỉ định UBND lâm thời
hai huyện Bắc Bình và Tuy Phong. Theo đó , UBND lâm thời huyện Tuy Phong gồm
có 13 đồng chí, do Đồng ch Phạm Trọng Do, làm Chủ tịch.

Ngày 01/6/1983, hai huyện Bắc Bình và Tuy Phong chính thức chia tách và đi
vào hoạt động. Mục đích của việc chia huyện theo chủ trương cấp trên nhằm tạo điều
kiện cho mỗi huyện phát huy thế mạnh, tiềm năng vốn có của mỗi địa phương. Đến năm 1987, xã Phong Phú được thành lập (tách ra từ xã Phú Lạc); Năm 2003, xã Vĩnh Tân được thành lập (tách ra từ xã Vĩnh Hảo); Đầu năm 2020, xã Hòa Phú được sáp nhập vào thị trấn Phan Rí Cửa theo Nghị quyết số 820/NQ- UBTVQH14 ngày 21/11/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Bình Thuận và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2020; Quyết định số 3361/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của UBND tỉnh về việc chuyển thôn, khu phố tại các đơn vị hành chính cấp xã thực hiện sắp xếp của tỉnh Bình Thuận 2019 – 2021. Như vậy đến năm 2020, huyện Tuy Phong có 02 thị trấn: Phan Rí Cửa, Liên Hương và 09 xã, gồm: Hòa Minh, Chí Công, Bình Thạnh, Phước Thể, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phú Lạc, Phong Phú và Phan Dũng.

Đặc biệt, năm 2000, Đảng bộ, quân và dân huyện Tuy Phong hết sức vui mừng,
vinh dự, tự hào được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong
tặng danh hiệu “Anh hùng lực ượng vũ trang” (cùng được phong tặng danh hiệu
trong năm này có thị trấn Phan Rí Cửa, Liên Hương và các xã: Chí Công, Hoà Minh,
Phước Thể, Vĩnh Hảo)[1]

3. Những thuận lợi, khó khăn khi mới tái lập Huyện

Tuy Phong, là một Huyện địa đầu của Tỉnh, là nơi tiếp giáp với huyện Bắc Bình
- tỉnh Bình Thuận và 02 tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận; là điểm tiếp giáp 3 vùng: Đông
Nam Tây nguyên, cực Nam Trung bộ và miền Đông Nam bộ; huyện Tuy Phong có
diện tích tự nhiên 778,6 km2; dân số trung bình đến cuối năm 2024 là 148.868
người; trên địa bàn huyện có 11 dân tộc anh em cùng sinh sống, gồm: Kinh, Chăm,
Rắc lây, Hoa, Nùng, Khmer, Tày, Thái, Kháng, K’ho, Mường. Trong đó, đồng bào các dân tộc thiểu số có hơn 9000 người, chiếm hơn 6% dân số. Tín đồ các tôn giáo có hơn 21.000 người, với 06 tôn giáo hoạt động hợp pháp gồm: Phật giáo, Cao Đài, Công giáo, Tin lành và 02 đạo của người Chăm là Hồi giáo Bani, Balamôn. Những năm đầu mới tái lập, huyện Tuy Phong phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; phần lớn các lợi thế của Huyện còn ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy và khai thác đúng mức. Kinh tế – xã hội còn nhiều nhiều khó khăn, tốc độ phát triển kinh tế chậm; cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng yếu kém, nhất là điện, đường, giao thông, thủy lợi; chất lượng nguồn nhân lực, sức cạnh tranh của các sản phẩm thấp; mức hưởng thụ của Nhân dân qua các dịch vụ xã hội và hoạt động y tế, giáo dục còn nhiều hạn chế; đời sống của Nhân dân còn nhiều khó khăn; công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền từ huyện đến cơ sở có mặt còn khó khăn, hạn chế…Tình hình của Huyện lúc bấy giờ đã khó lại càng khó khăn hơn, khi cơn bão số 9 năm 1983 (12/9 Âm lịch) đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản của Nhân dân[2], làm ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và phát triển của Huyện nhà.

Bên cạnh những khó khăn, thách thức, huyện Tuy Phong chúng ta cũng có
nhiều thuận lợi để tạo đà phát triển. Đó là vị trí địa lý, tiềm năng đất đai, rừng, biển,
nguồn lực lao động dồi dào, kết cấu hạ tầng được đầu tư trong những năm trước để
phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn. Những năm qua, được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của Tỉnh; bằng sự
nổ lực phấn đấu không ngừng của Đảng bộ và nhân dân Tuy Phong; với truyền thống
cách mạng và ý chí kiên cường của người dân Tuy Phong cộng với đức tính cần cù,
chịu khó, hiếu học, năng động sáng tạo, vượt khó vươn lên, … đã tạo cho huyện Tuy
Phong sớm thích nghi với cơ chế thị trường, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tận dụng cơ hội, phát huy tiềm năng, lợi thế, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng giao lưu kinh tế.
Điều đặc biệt đáng ghi nhận là cấp ủy, chính quyền và Nhân dân Huyện nhà đã biến vùng đất có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, nắng, gió, khô hạn quanh năm thành tiềm năng, lợi thể để phát triển mạnh nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), cung cấp sản lượng điện lớn cho cả nước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế chung của toàn Tỉnh.

II. THÀNH TỰU QUA 50 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

Trong suốt 50 năm qua, kể từ ngày Quê hương Tuy Phong được giải phóng (17/4/1975) đến nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Huyện nhà đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách, vừa ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, đối phó với những âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, vừa tập trung phát triển kinh tế, xã hội; đưa Tuy Phong từ một Huyện bị ảnh hưởng nặng nề trong chiến tranh; một vùng khí hậu, thiên tai khắc nghiệt, thừa nắng gió, thiếu mưa, thiếu nước, đời sống người dân còn nhiều khó khăn trở thành một Huyện ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, một vùng đất hứa hẹn nhiều tiềm năng, thế mạnh trong tương lai.

        1. Nền kinh tế của Huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá, phát triển tương đối
toàn diện.

- Kinh tế Huyện nhà luôn duy trì mức độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch tích cực và đúng hướng. Thu ngân sách tăng trưởng mạnh mẽ, năm sau cao hơn
năm trước. Nếu như năm 1983 (sau khi chia tách Huyện) tổng thu ngân sách Huyện chỉ đạt 2,7 tỉ đồng, vừa đủ cho nhu cầu chi thường xuyên các cơ quan Nhà nước, thì đến năm 2024 thu đạt trên 355 tỉ đồng/345 tỉ đồng, đạt 103,2% chỉ tiêu Tỉnh giao và tăng gấp 132 lần so với năm 1983. Ngoài ra, thu ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp thuộc Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân nộp ngân sách Tỉnh trên 2.000 tỉ đồng/năm. Từ nguồn thu Ngân sách Nhà nước, đã chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế. Nhờ kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân được cải thiện đáng kể.

- Các thành phần kinh tế được tạo điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh
bình đẳng; kinh tế tư nhân và hộ gia đình phát triển mạnh: hoạt động sản xuất kinh
doanh bình đẳng theo đúng quy định của pháp luật; số lượng doanh nghiệp, kinh tế
hộ gia đình tiếp tục phát triển, ngày càng tăng. Đến cuối năm 2024, toàn Huyện có 331 doanh nghiệp tư nhân với tổng vốn đăng ký là 20.401 tỉ đồng, trong đó, có 06 doanh nghiệp nước ngoài với tổng vốn đăng ký 14.671 tỉ đồng; 9.356 hộ kinh doanh cá thể với tổng vốn đăng ký hơn 1.842 tỉ đồng. Kinh tế tư nhân và hộ gia đình đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế -xã hội của Huyện, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân.

2- Tận dụng tốt cơ hội, phát huy tiềm năng, lợi thế, đưa các ngành kinh tế
của Huyện tiếp tục phát triển

2.1.Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển; ngành năng
lượng trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh.

Các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Huyện ngày càng đa dạng, một số sản phẩm lợi thế tiếp tục khẳng định chỗ đứng trên thị trường như: Nước khoáng Vĩnh Hảo, Muối công nghiệp Vĩnh Hảo, Tảo Vĩnh Hảo, Mủ trôm… Sản phẩm tăng chủ yếu là: may mặc, vật liệu xây dựng, thủy sản khô, nước mắm, đồ gỗ và sản phẩm gỗ tiếp tục ổn định và phát triển, nhất là sản lượng điện. Sản xuất và phân phối điện phát triển mạnh, năng lượng tái tạo được đầu tư và phát huy hiệu quả[3], ngành năng lượng đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế chung của toàn Tỉnh, góp phần đưa tỉnh Bình Thuận nói chung và huyện Tuy Phong nói riêng trở thành địa phương phát triển mạnh về công nghiệp năng lượng, từng bước trở thành một trung tâm năng lượng lớn của cả nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia. Bên cạnh đó, việc đưa vào hoạt động Trung tâm Vận tải đa phương thức và dịch vụ hậu cần Vĩnh Tân (Trung tâm Logistics Bình Thuận) gắn kết với Cảng Quốc tế Vĩnh Tân đã kéo theo nhiều dự án đầu tư liên quan, góp phần làm cho kinh tế Huyện nhà khởi sắc, góp phần giải quyết việc làm cho người dân địa phương. Hệ thống điện, nước sinh hoạt đã cung cấp đến tất cả địa bàn dân cư trên địa bàn Huyện, đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân.

- Toàn Huyện đã quy hoạch và được phê duyệt 01 khu công nghiệp với diện tích 150 ha và 03 cụm công nghiệp với diện tích 60,56 ha. Hiện nay đã có nhà đầu tư triển khai đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và 01 cụm công nghiệp (Cụm Công nghiệp chế biến thủy sản Hòa Phú), có 03 cơ sở sản xuất đang hoạt động trong các cụm công nghiệp[4]. Đang xúc tiến thủ tục xin chủ trương quy hoạch thành lập 01 cụm công nghiệp (Cụm Công nghiệp Vĩnh Tân) để thu hút đầu tư nhà máy sản xuất thiết bị điện gió, phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành năng lượng trên địa bàn Huyện

2.2. Ngành nông nghiệp phát triển ổn định, nâng cao chất lượng, hiệu quả.

- Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực sau ngày giải phóng, nhất là sau ngày tái lập Huyện. Tuy nhiên, lúc bấy giờ phương thức và trình độ sản xuất lạc hậu, ứng dụng cơ giới vào sản xuất nông nghiệp chưa nhiều, điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, chưa có hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, phụ thuộc lớn vào thiên nhiên, chất lượng và năng suất thấp.Trong lĩnh vực thủy sản, số lượng tàu thuyền có công suất nhỏ, chủ yếu đánh bắt hải sản ven bờ với phương thức đánh bắt truyền thống, năng suất thấp[5];

- Trong quá trình phát triển, nhờ sự quan tâm hỗ trợ của TW, của Tỉnh…ngành
nông nghiệp của Huyện đã có chuyển biến mạnh mẽ, việc đầu tư, xây dựng và đưa
vào sử dụng các hồ chứa nước Sông Lòng Sông, Đá Bạc, Phan Dũng, hoàn thiện hệ
thống kênh mương nội đồng đã cơ bản khắc phục tình trạng khô hạn, thiếu nước[6].
Trình độ sản xuất của người nông dân được nâng lên, ứng dụng khoa học công nghệ,
đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, quản lý và bố trí mùa vụ thích hợp
đã tạo ra những thay đổi tích cực trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hóa gắn với các yêu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng và năng suất.
Nếu sản lượng lương thực năm 1983 đạt khoảng 2120 tấn thì đến năm 2024 đạt 41.215 tấn. Một số cây trồng chủ lực như cây Nho, Táo phát triển mạnh. Cuối năm 2024, toàn Huyện có 11 sản phẩm được đưa vào đăng ký thực hiện Chương trình OCOP[7]; hình thành một số liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp[8]. Chăn nuôi được chuyển dần sang hình thức trang trại, quy mô lớn gắn với bảo đảm môi trường và phòng, chống dịch bệnh; các giống vật nuôi mới, chất lượng và năng suất cao đang từng bước phát triển. Thuỷ sản phát triển khá từ khâu khai thác đến chế biến, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi biển. Các đội tàu đánh bắt hải sản công suất lớn, gắn thiết bị hiện đại phát triển mạnh, vươn khơi xa gắn việc khai thác hải sản với bảo vệ chủ quyền Quốc gia. Số ượng tàu cá đã đăng ký đến năm 2024 là 2095 chiếc. Tổng công suất 249.955 CV, bình quân công suất là 119,3 CV/ tàu, trong đó tàu có chiều dài 15m trở lên là 258 chiếc; sản lượng và chất lượng khai thác hải sản ngày càng được nâng lên; sản lượng khai thác hải sản đến năm 2024 đạt 55.450 tấn. Sản xuất tôm giống phát triển mạnh, tiếp tục khẳng định thương hiệu tôm giống Tuy Phong và cung cấp cho thị trường cả nước; sản lượng tôm giống sản xuất bình quân đạt trên 25 tỷ post/ năm. Nuôi trồng thủy sản trên biển đang phát triển, quy mô ngày càng tăng, phù hợp với xu thế phát triển của ngành thủy sản. Công tác quản lý, bảo vệ rừng ngày càng chặt chẽ, tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2024 đạt 62,28%

2.3. Các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch có tốc độ phát triển triển tương
đối mạnh, trở thành ngành kinh tế quan trọng của Huyện

- Những năm đầu sau khi tái lập Huyện, hoạt động sản xuất, phân phối, cung
ứng hàng hoá do cơ quan thương nghiệp của Huyện phụ trách và gặp rất nhiều khó
khăn, số lượng, chủng loại hàng hóa ít, chất lượng của nhiều loại hàng hóa thấp,
không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân[9];

 - Đến nay, các ngành thương mại, dịch vụ phát triển mạnh và tương đối toàn
diện, thị trường ngày càng được mở rộng; số lượng, chủng loại hàng hóa phong phú,
đa dạng, chất lượng hàng hóa tốt, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân
dân; mạng lưới phân phối ngày càng được mở rộng, lưu thông hàng hóa và dịch vụ
thông suốt từ khu vực đô thị đến miền núi, vùng sâu, vùng xa; hình thành rõ nét các
điểm thương mại - dịch vụ ở đô thị và các khu dân cư tập trung. Hạ tầng kỹ thuật
thương mại chủ yếu được đầu tư, nâng cấp như: mạng lưới chợ truyền thống, siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi, hệ thống kinh doanh xăng dầu và các hạ tầng kỹ thuật thương mại khác được phát triển mạnh[10];

- Hoạt động vận tải ngày càng tăng về số lượng và có chất lượng cao hơn; đã
đưa vào hoạt động tuyến xe buýt từ Phan Rang Tháp Chàm – Tuy Phong - Bắc Bình
– Phan Thiết[11]. Hạ tầng giao thông ngày càng phát triển, nhiều công trình giao thông
đường bộ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, nối liền các vùng, miền, phục vụ sản xuất và đời sống của người
dân[12]. Mạng lưới đường giao thông nông thôn phát triển, hệ thống đường đến các
trung tâm xã, thôn, xóm cơ bản đã được liên thông, đã có 100% xã có đường ô tô đến
trung tâm. Vận tải đường biển đã hình thành Cảng quốc tế Vĩnh Tân; vận tải đường
sắt đã bổ sung thêm 01 nhà ga tại Vĩnh Tân. Một số dự án lớn về giao thông đi qua
địa bàn Huyện đang hoàn thiện, nhất là Đường bộ cao tốc Bắc – Nam (phía Đông
đoạn qua địa bàn Huyện) sẽ tạo cơ hội để Huyện thu hút đầu tư, phát triển sản xuất
kinh doanh, phát huy hiệu quả Cảng quốc tế Vĩnh Tân và phát triển dịch vụ Logistics,
tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;

- Mạng lưới bưu chính viễn thông được mở rộng, phát triển nhanh với nhiều
loại hình dịch vụ phong phú, tiên tiến, hiện đại, đảm bảo chất lượng, thông tin liên lạc
thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Nhà nước và phục vụ
người dân, doanh nghiệp[13]. Hoạt động tín dụng phát triển tương đối tốt, số lượng các
chi nhánh ngân hàng thương mại ngày càng tăng (Trên địa bàn huyện có 09 Chi
nhánh ngân hàng thương mại hoạt động: Agribank Tuy Phong, Vietcombank, Liên
Việt Post Bank, Agribank Phan Rí Cửa, Sacombank, HD bank, ACB, Bản Việt, Nam
A Bank ) và nâng cao chất lượng dịch vụ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội địa phương. Dịch vụ bảo hiểm ngày càng phát triển đa dạng, phong phú.

- Hoạt động du lịch, nhất là các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng phát
triển nhanh; sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng hơn, chất lượng dịch vụ phục vụ
hoạt động du lịch ngày càng được nâng lên, môi trường du lịch an toàn, thân thiện;
một số địa điểm, thắng cảnh du lịch của Tuy Phong đã được du khách đánh giá cao
(Tuyến du lịch Tà Năng – Phan Dũng; du lịch biển đảo Hòn Cau; Bãi đá Cà Dược,
Bãi Rêu, Đá Bà Khòm - Bình Thạnh; Chùa Cổ Thạch,…); lượng khách du lịch đến
tham quan, nghỉ dưỡng năm 2024 đạt trên 1,650 triệu lượt khách. Công tác truyền thông, quảng bá các khu, điểm du lịch trên địa bàn Huyện được đẩy mạnh. Thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch đến nay có 23 dự án được Tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư còn hiệu lực, diện tích 357,2 ha; tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4.495 tỷ đồng. Ngành du lịch đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế -xã hội của Huyện[14]

3. Hệ thống đô thị được đầu tư; Việc xây dựng nông thôn mới đạt kết quả
tích cực.

- Hệ thống đô thị có bước phát triển đáng kể, thị trấn Phan Rí Cửa đã được công
nhận là đô thị loại 4, đã sáp nhập xã Hòa Phú vào thị trấn Phan Rí Cửa để mở rộng
không gian đô thị; đang đề nghị công nhận thị trấn Liên Hương đạt đô thị loại 5. Hệ
thống kết cấu hạ tầng ở hai thị trấn được quan tâm đầu tư phát triển; các trục đường
chính trong đô thị đã được nhựa hóa; hệ thống cung cấp điện và cấp nước đáp ứng
nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của Nhân dân[15]; hệ thống thoát nước đang được đầu tư ở
một số khu vực trung tâm và trục đường chính. Mạng lưới bưu chính viễn thông được
mở rộng; các thiết chế văn hóa, thể thao quan tâm đầu tư; hạ tầng y tế, giáo dục cơ
bản đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân đô thị. Bộ mặt đô thị ngày càng khởi sắc; đời
sống cư dân đô thị từng bước cải thiện đáng kể.

- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ
đạo đạt kết quả tích cực; đến cuối năm 2024, toàn huyện có 6/9 xã đạt chuẩn nông
thôn mới (Bình Thạnh, Hòa Minh, Phước Thể, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phú Lạc). Kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được quan tâm đầu tư, các khu dân cư ở vùng sâu, vùng xa đã được đầu tư đường giao thông đến khu vực trung tâm. Phong trào làm giao thông nông thôn phát triển rộng khắp, nhiều tuyến đường nội xã, ngõ, xóm được bê tông hóa; phong trào làm thủy lợi nhỏ, kiên cố hóa kênh mương nội đồng được triển khai tích cực. Hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt đã được đầu tư, mạng lưới viễn thông, Internet, mạng 3G, 4G đã phủ sóng đến tất cả vùng nông thôn. Hệ thống trường, lớp được đầu tư kiên cố hóa, đa phần đã “lầu hóa”; tất cả các xã đều có trạm y tế; các thiết chế văn hóa, thể thao tiếp tục được đầu tư. Hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp từng bước được củng cố và hoạt động có hiệu quả. Đã hình thành và duy trì 04 liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống của Nhân dân được nâng lên[16]

- Công tác rà soát, lập Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn
đến năm 2050, Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của Huyện được Ban Thường vụ
Huyện ủy chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, theo quy định. Hoàn thành phê duyệt Quy
hoạch chung xây dựng 9/9 xã đảm bảo đồng bộ, khả thi và phát huy hiệu quả; thực
hiện điều chỉnh quy hoạch chung thị trấn Liên Hương, Phan Rí Cửa, phân khu du
lịch Bình Thạnh và quy hoạch chi tiết trung tâm xã Phước Thể, Vĩnh Tân, Vĩnh
Hảo.

- Bên cạnh đó, để lập thành tích chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng Tuy Phong, giải phóng Bình Thuận và chào mừng đại hội đảng các cấp. Trong những tháng cuối năm 2024 và đầu năm 2025, Huyện đang ráo riết tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án ý nghĩa phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn Huyện như: Dự án Kè bảo vệ bờ biển Bình Thạnh (giai đoạn 2); sửa chữa nâng cấp Trường tiểu học Liên Hương 2; dự án nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 1A đi xã Phong Phú và dự án Kè bảo vệ thôn Vĩnh Tiến xã Vĩnh Tân với tổng kinh phí đầu tư 282.592 triệu.....

- Nhìn chung, trong thời gian qua, công tác đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn Huyện được quan tâm đẩy mạnh; công tác quản lý Nhà nước về đầu tư công ngày càng chặt chẽ, chất lượng được cải thiện, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Thường xuyên chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình và giải ngân kế hoạch vốn được giao[17]

4. Kết quả xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng đồng bào
dân bào dân tộc thiểu số đạt kết quả tích cực.

 - Việc đầu tư phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng đồng bào dân bào dân tộc
thiểu số được lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cấp huyện rất quan tâm. Những năm đầu
mới tái lập, Huyện đã tập trung đầu tư một số công trình phục vụ dân sinh, kinh tế- xã
hội góp phần phục vụ sản xuất và đời sống. Các chương trình hỗ trợ sản xuất theo
Chương trình 134, 135; giao khoán bảo vệ rừng, giao đất sản xuất; dự án “đào tạo cán
bộ và cộng đồng xã Phan Dũng”, đào tạo nghề thú y ...tiếp tục triển khai đạt kết quả
tốt. Đặc biệt cuối năm 2024, công trình Cầu qua Đập tràn xã Phan Dũng hoàn thành đưa vào sử dụng có ý nghĩa quan trọng, góp phần giúp giao thông, giao lưu thuận lợi, sản xuất nông nghiệp ổn định và phát triển, đời sống đồng bào dân tộc được cải thiện rõ hơn; lòng tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục được nâng lên.

- Những năm gần đây, bên cạnh sự quan tâm của Huyện còn có sự hỗ trợ của
TW, của Tỉnh nên tình hình dân sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
tiếp tục phát triển. Đã đầu tư đường giao thông thảm nhựa từ Quốc lộ1A – Phan
Dũng, kết nối từ khu vực trung tâm Huyện đến xã vùng cao Phan Dũng; điện lưới
quốc gia, hệ thống cấp nước sinh hoạt, hạ tầng bưu chính, viễn thông đều khắp; đầu
tư và đưa vào hoạt động có hiệu quả Cửa hàng dịch vụ nông nghiệp tại xã Phan
Dũng; hoàn thành và đưa vào sử dụng Hồ chứa nước Phan Dũng và đầu tư hệ thống
kênh mương, giao thông nội đồng, tạo điều kiện cho người dân xã Phan Dũng phát
triển sản xuất nông nghiệp; các chương trình phát triển dân sinh, kinh tế vùng đồng
bào dân tộc thiểu số được triển khai, nhất là thực hiện tốt chính sách hỗ trợ, cấp đất
sản xuất cho người dân, các chương trình khuyến nông, hỗ trợ phát triển sản xuất,…
giúp đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện để sản xuất nông nghiệp, vươn lên thoát
nghèo, cải thiện đời sống; tiếp tục thực hiện tốt chính sách giao khoán, quản lý, bảo
vệ rừng cho người dân. Cơ sở vật chất y tế, giáo dục; các thiết chế văn hóa được quan
tâm đầu tư; các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số được phát huy, cơ
bản đáp ứng nhu cầu của người dân. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi được cải thiện đáng kể. Đến tháng 3 năm 2025, Đảng bộ xã Phan Dũng đã hoàn thành biên soạn tập lịch sử Đảng bộ xã Phan Dũng, giai đoạn 1930-2020, phản ánh quá trình 90 năm hình thành, xây dựng và phát triển của Đia phương.

- Hiện nay, Huyện đang tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai 03 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; giảm nghèo bền vững đối với 03 xã vùng cao, vùng khó khăn của huyện, gồm: xã Phan Dũng, Phong Phú, Phú Lạc.

5. Công tác quản lý tài nguyên và môi trường có nhiều cố gắng.

- Hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai, trật tự xây dựng, khoáng sản, môi
trường được chú trọng gắn với xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định
của pháp luật. Việc sử dụng đất ngày càng bám sát hơn quy hoạch và kế hoạch được
duyệt, hiệu quả được nâng lên. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được quan tâm đẩy mạnh. Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường
được quan tâm chỉ đạo, hoạt động kiểm tra, giám sát về môi trường, nhất là đối với
các cơ sở có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường. Nhiều chỉ tiêu về môi trường được
cải thiện, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ dân được cung cấp nước hợp vệ sinh đạt 99,95%, tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom xử ý 95%, tỷ lệ che phủ rừng 62,28%. Huyện đang tiếp tục tích cực triển khai thực hiện Đề án “Tạo chuyển biến tích cực, rõ nét về nhận thức và hành động của cán bộ, nhân dân và các doanh nghiệp về công tác bảo vệ môi trường, nhất là Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân; xây dựng môi trường xanh-sạch- đẹp trong các đô thị, khu dân cư tập trung, khu du lịch, các cơ quan, doanh nghiệp” giai đoạn 2021 – 2025, bước đầu đã có chuyển biến về nhận thức trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; nhiều hoạt động thu gom rác thải, bảo vệ môi trường tạo sự lan tỏa và được Nhân dân hưởng ứng, tham gia.  

- Công tác phòng, tránh thiên tai, ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu
được chú trọng; từng bước đầu tư xây dựng hệ thống đê, kè chống xâm thực bờ biển[18], đầu tư đưa vào hoạt động Cảng cá Phan Rí Cửa và Khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá Liên Hương, kè biển Liên Hương; nhiều công trình thủy lợi để chủ động nguồn cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho Nhân dân, cơ bản khắc phục tình trạng khô hạn, thiếu nước, nhất là nước sinh hoạt  

6. Hoạt động văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ; các chính sách an sinh xã hội
được giải quyết kịp thời; công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm ngày
càng được chú trọng.

6.1. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo được quan tâm đầu tư và phát triển tương
đối toàn diện

- Từ sau ngày giải phóng cho đến khi tái lập Huyện năm 1983, cơ sở vật chất của ngành giáo dục còn nhiều thiếu thốn, một số nơi cơ sở vật chất trường, lớp còn tạm bợ; lực lượng giáo viên các cấp còn thiếu, có nơi phải học 3 ca; tỷ lệ huy động học sinh ra lớp và chất lượng đào tạo còn thấp; tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao.

- Đến nay, cơ sở vật chất trường, lớp đã được đầu tư kiên cố, đa số “lầu hóa” và phân bổ đều khắp các địa bàn dân cư[19], tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đến trường, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp và số lượng học sinh đến trường ngày càng tăng, tỷ lệ bỏ học giảm[20]; trang thiết bị dạy và học được tăng cường đầu tư; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ngày càng được nâng lên, đạt chuẩn theo quy định; công tác đổi mới phương pháp dạy và học được chú trọng; chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng được nâng lên, quan tâm đúng mức giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh; tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, trung học cơ sở và tốt nghiệp trung học phổ thông được tăng lên qua từng năm. Đến cuối năm học 2023 – 2024, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%, học sinh tốt nghiệp THCS đạt trên 99%, học sinh tốt nghiệp THPT đạt 98,36%[21]. Có 11/11 xã, thị trấn được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đã giữ vững chuẩn hàng năm. Số ượng trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2024 là 26/54 trường, đạt tỷ lệ 48,1%

         - Công tác đào tạo nghề ngày càng được chú trọng, trên địa bàn Huyện có 01 cơ
sở đào tạo công lập và 01 cơ sở đào tạo ngoài công lập, cả hai cơ sở này đã tham gia tích cực vào công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn và liên kết đào tạo trình độ từ trung cấp đến đại học, chú trọng đào tạo gắn kết với nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó còn có 11 trung tâm học tập cộng đồng của các xã, thị trấn do chính quyền địa phương quản lý; đã tổ chức nhiều lớp học nghề nông thôn, chuyển giao kiến thức khoa học kỹ thuật… góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết lao động của địa phương. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Huyện đạt 73%, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng hoặc chứng chỉ đạt 29,39%

         6.2. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân từng bước được cải
thiện
         - Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân trên địa bàn Huyện được quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực; Trung tâm Y tế huyện với quy mô 150 giường bệnh, Phòng khám Đa khoa Phan Rí Cửa với quy mô 50 giường bệnh và 10 trạm y tế xã, thị trấn với quy mô 55 giường bệnh; trang thiết bị của các cơ sở y tế đã từng bước được trang bị, kết hợp giữa y học cổ truyền với y học hiện đại; 100% các trạm y tế xã đều có bác sĩ thăm khám, chữa bệnh đáp ứng nhu cầu khám và điều trị bệnh của tuyến huyện và xã. Các chính sách hỗ trợ thực hiện đầy đủ nên các đối tượng chính sách, người nghèo, cận nghèo được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn. Công tác y tế dự phòng được chú trọng; năng lực và tính chủ động trong phòng, chống dịch bệnh ngày càng được nâng lên, đặc biệt, ngành y tế đã nỗ lực lớn, khắc phục khó  khăn, cùng với cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong Huyện thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống Đại dịch COVID-19- Đại dịch gây nhiều đau thương, mất mát chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2024, còn dưới 7,19%. Hiên nay, 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế và duy trì đạt chuẩn hàng năm; Công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo hiểm y tế được triển khai đồng bộ, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng; đến cuối năm 2024, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân trên địa bàn Huyện đạt 91,92%. Chúng ta có thể tự hào nói rằng: đã cố gắng giành những điều kiện tốt nhất để phát triển sự nghiệp giáo dục và y tế Huyện nhà.

       6.3. Hoạt động thông tin, tuyên truyền ngày càng được tăng cường; phong
trào văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao phát triển mạnh.

        - Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, truyền thanh, truyền hình, thể dục thể
thao từ Huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, khởi sắc và sôi nổi, chất lượng hoạt động
từng bước được nâng lên. Hệ thống truyền thanh, truyền hình đã phủ sóng khắp các
địa bàn, kể cả vùng đồng bào dân tộc thiểu số Phan Dũng[22]. Hiện nay, người dân đã
tiếp cận các thành tựu cao của công nghệ truyền thông như internet, mạng xã hội,
truyền hình cáp, My ti vi... trình độ thưởng thức, ý thức tham gia các hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao của Nhân dân được nâng cao rõ rệt.

         - Bên cạnh đó, các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư, cấp huyện và các
xã, thị trấn đều có nhà văn hóa. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lễ hội
truyền thống được chú trọng[23], Lễ hội Giỗ Tổ các Vua Hùng tại thị trấn Phan Rí Cửa
được tổ chức hàng năm với quy mô cấp tỉnh. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” được triển khai rộng khắp và luôn nhận được sự đồng tình
hưởng ứng của đông đảo quần chúng Nhân dân. Đến cuối năm 2024, toàn Huyện có
95,28% hộ gia đình đạt “Gia đình văn hóa”.

          - Phong trào thể dục - thể thao quần chúng phát triển, xã hội hóa hoạt động văn
hóa - thể thao ngày càng đẩy mạnh; các phòng tập thể dục, thể hình; các sân bóng đá
05 người, sân cầu lông...được quan tâm đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và xã hội hóa;
số lượng người tham gia luyện tập thể dục - thể thao ngày càng tăng. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ người dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 32,95%. Ngoài việc chỉ đạo phát động tốt phong trào thể dục thể thao ở địa phương, Huyện còn tích cực tổ chức tham gia các giải thể thao cấp tỉnh và đạt thành tích cao một số môn thể thao  thế mạnh của Huyện.

         6.4. Công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm, giảm nghèo, chăm lo các
đối tượng chính sách được chú trọng.

        - Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chế độ, chính sách đối với các gia đình có
công với cách mạng; các phong trào đóng góp xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào nhận phụng dưỡng, đỡ đầu đã được các cơ quan, đơn vị và nhân dân trong Huyện hướng ứng tích cực; công tác xây dựng, sửa chữa nhà tình nghĩa, chăm lo nhà ở cho các gia đình có công với cách mạnh được chú trọng thực hiện, cơ bản các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng không còn nhà ở tạm bợ, dột nát. Đến nay, Huyện và tất cả các xã, thị trấn đều được xây dựng công trình đài tưởng niệm, bia ghi danh các anh hùng liệt sĩ, đã đầu tư xây dựng hoàn thành Đền thờ liệt sĩ của Huyện[24]. Năm 2025, thực hiện theo chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh; Ban Thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện Tuy Phong đã tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện, quyết tâm xoá 100% nhà tạm, nhà dột, nát đối với gia đình người có công cách mạng và các hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn Huyện, để người dân có nơi ăn, chốn ở ổn định, an toàn.

           - Huyện Tuy Phong thực hiện tương đối tốt công tác giảm nghèo, các phong
trào đóng góp xây dựng quỹ “Vì người nghèo”, phong trào chung sức chung lòng xây
dựng nông thôn mới “không để ai ở lại phía sau”...được phát động và duy trì thường xuyên. Các dự án, chính sách giảm nghèo được thực hiện có hiệu quả như: Xây dựng kết cấu hạ tầng cho xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ hộ nghèo có điều kiện phát triển sản xuất; chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo gắn với hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; thực hiện đảm bảo các chính sách về y tế, giáo dục, hỗ trợ nhà ở, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và trợ cấp xã hội khác... tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản. Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều đạt chỉ tiêu đề ra, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn Huyện chỉ còn 1,28% (489 hộ).

         - Bên cạnh đó, Huyện còn thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội, các đối
tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện đều được hưởng chính sách theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi để các nhóm đối tượng yếu thế được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản; Giải quyết việc làm được Huyện quan tâm thực hiện, nếu tính bình quân riêng giai đoạn 2020 – 2024 giải quyết việc làm cho 2.220 lao động/năm.

        7. Quốc phòng được củng cố và tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội căn bản được bảo đảm.

        - Xác định quốc phòng-an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên nên Huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả những nhiệm vụ như: duy trì thường xuyên trực sẵn sàng chiến đấu; công tác diễn tập, huấn luyện phòng thủ, chiến đấu được thực hiện tốt, chất lượng được nâng lên; công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng theo phân cấp được quan tâm đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực. Giao quân đạt chỉ tiêu được giao hàng năm, đảm bảo chất lượng. Công tác hậu phương quân đội được thực hiện tốt. Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc cấp huyện, cấp xã được triển khai chặt chẽ, đồng bộ;

        - Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội
được tăng cường. Triển khai đồng bộ nhiều biện pháp đấu tranh, kiềm chế, ngăn chặn
sự gia tăng tội phạm, giảm phạm pháp hình sự; đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã
hội, nhất là tệ nạn ma tuý; Công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, phòng chống
cháy nổ được quan tâm, kiểm tra thường xuyên. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc tiếp tục được mở rộng, chất lượng ngày càng được nâng lên. Sự phối hợp
giữa các lực lượng vũ trang trên địa bàn khá chặt chẽ; xử lý có kết quả các tình huống xảy ra.

      8. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực.

       Những năm qua, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội được toàn Đảng bộ huyện chú ý lãnh đạo, chỉ đạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năm 1983, sau khi tái lập huyện Tuy phong, toàn Đảng bộ huyện có 31 cơ sở Đảng, tổng số đảng viên hơn 400 đồng chí. Đến quý I năm 2025, sau khi sáp nhập một số chi bộ cơ sở, toàn Đảng bộ huyện 57 chi bộ, đảng bộ cơ sở (37 chi bộ, 20 đảng bộ cơ sở với 196 chi bộ trực thuộc), 3.855 đảng viên (tăng gấp 9,6 lần so năm 1983). Công tác chính trị tư tưởng được quan tâm đẩy mạnh; việc kiểm tra, giám sát được chú trọng thường xuyên; chất ượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng ngày càng được nâng lên. Đa số đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức, gương mẫu trong chấp hành pháp luật Nhà nước; trình độ học vấn, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao; sự đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng bộ luôn được coi trọng, giữ gìn. Việc đánh giá xếp loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ngày càng đi vào thực chất; những năm gần đây tỉ lệ xếp loại tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt không ngừng được nâng lên. Năm 2024 có 49/60 tổ chức cơ sở đảng xếp loại hoàn thành tốt trở lên, chiếm tỉ lệ 81,7% %. Công tác xây dựng chính quyền được quan tâm thực hiện thường xuyên; các cơ quan nhà nước từ huyện đến xã, thị trấn được sắp xếp, củng cố từng bước tinh gọn; chất lượng, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên, 100% đạt chuẩn theo quy định; có nhiều cố gắng trong việc thực hiện cải cách hành chính; chú trọng công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thường xuyên đối thoại và giải quyết có hiệu quả đơn thư của công dân...thể hiện ngày càng rõ hơn bản chất Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”; luôn chú ý củng cố kiện toàn, tập trung quản lý điều hành các hoạt động, thực hiện có kết quả các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm. Cán bộ công chức, viên chức ngày càng trưởng thành về tư tưởng chính trị, chuẩn hóa về kiến thức trình độ chuyên môn, từng bước nâng cao năng lực công tác và tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ Nhân dân. Công tác biên soạn Lịch sử Đảng bộ được quan tâm; Huyện đã biên soạn 03 Tập lịch sử phản ánh 03 giai đoạn lịch sử: giai đoạn 1930-1945; giai đoạn 1945-1975; giai đoạn 1975-2000 và hiện nay đang phấn đấu hoàn thành biên soạn tập lịch sử Đảng bộ Huyện, giai đoạn 2000-2025, phản ánh quá trình 25 năm xây dựng và phát triển của Địa phương giai đoạn sau đổi mới.

        Công tác dân vận, nhất là “dân vận khéo” chuyển biến rõ nét; hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục hướng về cơ sở, phát
huy dân chủ, phát động và tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước thiết thực với các mô hình hay góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu chủ yếu, nhiệm vụ trọng tâm của Huyện. Quan tâm vận động các nguồn lực tổ chức nhiều chương trình, hoạt động hỗ trợ, chăm lo cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, đoàn viên, hội viên, người lao động, học sinh có hoàn cảnh khó khăn... Nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp Nhân dân và phối hợp các cơ quan chức năng, có thẩm quyền giải quyết đơn thư, giải quyết các vụ việc nổi lên ở cơ sở; tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, hoàn thành kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hàng năm.

       III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT 50 XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN.

       Trãi qua 50 năm, sau ngày quê hương Tuy Phong được giải phóng (1975- 2025), dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, các doanh nghiệp và các tầng lớp Nhân dân trong Huyện đã nỗ lực, phấn đấu khắc phục, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, xây dựng huyện Tuy Phong phát triển với nhiều thành tựu quan trọng và khá toàn diện. Nổi rõ:

       Kinh tế của Huyện phát triển nhanh, quy mô nền kinh tế được nâng lên, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; tiềm năng và lợi thế của Huyện từng bước
được khai thác, quản lý, sử dụng và phát huy hiệu quả. Thành tựu nổi bật nhất trong những năm qua là việc chủ động tranh thủ mọi sự giúp đỡ, huy động mọi nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, chỉnh trang đô thị của 2 thị trấn, và các khu dân cư nông thôn. Các công trình như: hồ Đá Bạc, hồ Sông Lòng Sông, hồ Phan Dũng, đường Chí Công – Bình Thạnh, đường lên Phan Dũng, đường Bình Thạnh – Liên Hương, cầu Sông Luỹ, Cầu bắt qua đập tràn Phan Dũng... đã đánh thức, khơi dậy tiềm năng phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch trên những vùng rộng lớn. Việc xây dựng huyện Tuy Phong trở thành trung tâm phát triển mạnh về năng lượng, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của Tỉnh. Ngành thương mại - dịch vụ phát triển nhanh; việc đầu tư và đưa vào khai thác các công trình thủy lợi, nhất là Hồ chứa nước Sông Lòng Sông, Hồ Phan Dũng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục tình trạng khô hạn, khai thác có hiệu quả các vùng đất hoang hóa, nâng cao năng suất và thu nhập của người nông dân. Các công trình giao thông đã kết nối các vùng sâu, vùng xa với khu vực trung tâm, khắc phục tình trạng chia cắt ở các khu vực Hòa Phú – Phan Rí Cửa, Phan Dũng, Cây Cám – Hòa Minh, Cửa Sứt - Phước Thể, Xóm 1C và khu vực Sân Xe Chùa– Vĩnh Hảo…

        Việc đầu tư, đưa vào sử dụng các nhà máy, các trạm cung cấp nước: Phong Phú, Hòa Minh, Vĩnh Hảo-Vĩnh Tân; việc đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống truyền thanh, truyền hình, viễn thông, mạng internet, mạng truyền hình cáp vv.. đã làm diện mạo kinh tế - xã hội của Huyện ngày càng sôi động hơn, năng động hơn. Các hoạt động văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; công tác giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe Nhân dân có chuyển biển tích cực; công tác chăm lo cho gia đình người có công với cách mạng được thực hiện tốt, các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; hoạt động văn hóa - thể thao ngày càng phát triển mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân trên địa bàn Huyện được nâng lên rõ rệt.

         Bên cạnh đó, Đảng bộ đã tích cực chăm lo nguồn lực con người, chăm lo xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới và xây dựng Quê hương. Bộ máy Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu quả và phục vụ tốt hơn nhu cầu của Nhân dân. Quốc phòng được củng cố, tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm... Tất cả đã góp phần làm cho quê hương Tuy Phong thay da, đổi thịt; tạo chuyển biến rõ nét trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng; nâng cao một bước đời sống văn hóa, tinh thần của Nhân dân; đặt nền tảng cho sự phát triển cao hơn, bền vững hơn của Huyện nhà trong tương lai.

       Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình xây dựng và phát
triển huyện Tuy Phong vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Kinh tế tuy có tăng trưởng
nhưng chưa vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Huyện; quy mô
nền kinh tế còn nhỏ; công nghiệp phát triển còn chậm (trừ ngành năng lượng); hoạt
động du lịch còn nhỏ lẻ, sản phẩm đơn điệu. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và chưa đồng
bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Huyện. Công tác quản ý Nhà
nước về đất đai, trật tư xây dựng, khoáng sản có mặt chưa chặt chẽ, còn xảy ra sai
phạm; môi trường tại Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực ngành y tế còn khó khăn,
có mặt chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho Nhân dân; xã hội hóa trong lĩnh
vực giáo dục, y tế chưa đạt yêu cầu. Đời sống của một bộ phận Nhân dân, nhất là
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bãi ngang ven biển còn khó khăn. Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có mặt chưa đáp ứng yêu cầu; cải cách thủ tục hành chính có mặt chưa chuyển biến rõ nét. Một số vấn đề xã hội, nhất là tệ nạn ma túy chưa được giải quyết căn bản; trật tự xã hội từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp.

      IV. TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN

      Tuy Phong là Huyện có vị trí địa lý tương đối thuận lợi: giáp ranh với hai tỉnh
Ninh Thuận và Lâm Đồng; có đường cao tốc Bắc - Nam, Quốc lộ 1A và đường sắt
Bắc - Nam đi qua, có Cảng quốc tế Vĩnh Tân. Huyện ta có bờ biển dài trên 50 km
với nhiều bãi biển phong cảnh đẹp, cùng cảnh đẹp thiên nhiên mang dấu ấn của Tuy
Phong như thác Tân Cung, thác Yav ly, rừng nguyên sinh Tà Hoàng, đồi hoa Bằng
lăng, bãi đá Cà Dược, đồi cát trắng, bãi rêu Bình Thạnh… và các công trình di tích
văn hóa như Chùa Cổ Thạch, Chùa Linh Sơn tự, Đình Bình An, Đền tháp Chăm Pô
Dam, khu di tích Cát Bay, Đền thờ Hùng Vương…Bên cạnh đó, còn có cung đường
du lịch nổi tiếng Tà Năng – Phan Dũng, Hoà Thắng- Hoà Phú; có đảo Hòn Cau nằm
trong Khu bảo tồn biển Hòn Cau, ... là lợi thế để phát triển du lịch. Tuy Phong là một
trong 03 ngư trường lớn nhất của tỉnh về nguồn lợi hải sản, đặc sản có giá trị kinh tế
cao;...
        Với vị trí địa ý tương đối thuận lợi như trên, huyện Tuy Phong có tiềm năng,
lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, cụ thể là:

        1- Hệ thống giao thông đối ngoại tương đối thuận lợi (đường bộ cao tốc Bắc –
Nam, Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, tuyến đường ven biển của Tỉnh) dễ dàng kết
nối với khu vực trung tâm của Tỉnh và vùng Đông Nam bộ, là cửa ngõ kết nối của Tỉnh  với vùng duyên hải Miền Trung. Cảng quốc tế Vĩnh Tân đã đưa vào hoạt động tạo điều kiện tiếp nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu từ các tỉnh Tây Nguyên; Khu Công
nghiệp Tuy Phong đang được đầu tư hạ tầng, trong thời gian tới sẽ thu hút các nhà
đầu tư thứ cấp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thuận lợi phát triển ngành công
nghiệp trên địa bàn Huyện và phát triển dịch vụ Logicstics;

        2- Số giờ nắng và lượng gió trong năm tương đối lớn, chiều dài bờ biển và diện
tích biển khá lớn, thuận lợi cho phát triển năng lượng tái tạo, nhất là điện mặt trời,
điện gió ngoài khơi và phát triển công nghiệp phụ trợ ngành năng lượng;

        3- Thời tiết nắng ấm quanh năm, bờ biển dài, có đảo Hòn Cau, phong cảnh đẹp,
hoang sơ; cung đường du lịch nổi tiếng Tà Năng – Phan Dũng, cung đường Hòa
Thắng- Hòa Phú xinh đẹp... là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch;

       4- Ngư trường lớn, nhiều loài hải, đặc sản có giá trị kinh tế cao; ngư dân có
truyền thống và kinh nghiệm khai thác hải sản gắn với ứng dụng công nghệ hiện đại
thuận lợi cho phát triển ngành kinh tế biển như khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn
với công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, sản xuất tôm giống là thế mạnh của huyện
Tuy Phong, chất lượng và thương hiệu đã được khẳng định. Với diện tích biển lớn,
thuận lợi cho ngành nuôi trồng thủy sản; Hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất ngày càng được quan tâm đầu tư, cơ bản chủ động được nước tưới, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhất là các cây trồng có lợi thế của Huyện như cây nho, cây táo, các loại cây dược liệu, tảo spiru ina,…

       5- Lực lượng lao động tại Huyện ta dồi dào, cần cù, chịu khó; chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên, là nguồn lực quan trọng để cung ứng cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh;

        6- Huyện ta dân số tương đối đông, sinh sống tập trung ở hai thị trấn và các xã đồng bằng, ven biển, là thị trường tiêu thụ nội địa tiềm năng, hoạt động thương mại - dịch vụ có điều kiện phát triển nhanh. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Đề án “Đẩy nhanh tốc độ phát triển dịch vụ, nhất là thương mại và du lịch” trong giai đoạn 2021 – 2025 đã tạo điều kiện cho hoạt động thương mại, dịch vụ của Huyện phát triển nhanh hơn trong giai đoạn tới.

       V. NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CẦN TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN TRONG NĂM 2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030.

      Tập trung lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ
Huyện lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020-2025 và các kế hoạch của Huyện ủy thực hiện các
Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy (khóa XIV). Nhiệm vụ chung năm 2025 và những
năm tiếp theo là duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định, đảm bảo an sinh xã hội và cải
thiện đời sống Nhân dân.Tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thực hành tiết kiệm; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh nông thôn. Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước một cách sâu rộng, thiết thực, hiệu quả ở các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị với quyết tâm cao, nổ lực lớn, hành động quyết liệt.

       Để thực hiện tốt nhiệm vụ chung, cần tập trung thực hiện tốt 05 nhiệm vụ trọng
tâm và 02 nhiệm vụ đột phá do Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ
IX, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra, sau đây:

      * Nhiệm vụ trọng tâm:

       (1). Nâng cao chất lượng, tạo sự chuyển biến rõ nét trong hoạt động của hệ
thống chính trị từ huyện đến cơ sở, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành,
quản lý của chính quyền các cấp gắn với sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và cán bộ,
công chức của hệ thống chính trị. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với đẩy mạnh công
tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng, đạo đức lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

       (2). Huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển; khai thác, sử dụng có
hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Huyện, tập trung phát triển kinh tế biển, hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển công nghiệp năng lượng. Tăng cường công tác quản ý Nhà nước về đất đai, trật tự xây dựng, trật tự đô thị, khoáng sản và bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai. Thực hiện hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

      (3). Thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính; khuyến khích tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi để doanh nghiệp, người dân đầu tư, kinh doanh.

      (4). Tăng cường quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của Nhân dân.

      (5). Kịp thời giải quyết có hiệu quả những bức xúc về mặt xã hội. Quan tâm
chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, chú ý vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng ven biển.

       * Lĩnh vực đột phá:

       (1). Tiếp tục “Đẩy nhanh tốc độ phát triển dịch vụ, nhất là thương mại và du
lịch” đồng bộ, chất lượng, hiệu quả toàn diện hơn.

       (2). Tạo chuyển biến tích cực, rõ nét về nhận thức và hành động của cán bộ,
nhân dân và các doanh nghiệp về công tác bảo vệ môi trường, nhất là Trung tâm nhiệt
điện Vĩnh Tân; xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp trong các đô thị, khu dân cư tập
trung, khu du lịch, các cơ quan, doanh nghiệp

        Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng huyện Tuy Phong, Đảng bộ và Nhân dân Huyện ta vô cùng phấn khởi, tự hào về những kết quả đạt được trong chặng đường cách mạng đã qua. Có được những thành tựu này, Đảng bộ và Nhân dân Tuy Phong bày tỏ lòng thành kính và biết ơn vô hạn mãi mãi trân trọng và ghi nhớ công ơn tổ tiên, cha ông đã tạo dựng mãnh đất, con người Tuy Phong hôm nay. Mãi mãi tôn vinh và tri ân các anh hùng liệt sĩ, các đồng chí đã chiến đấu anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì quê hương Tuy Phong thân yêu. Tri ân các mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ lão thành cách mạng, các thế hệ cán bộ, đảng viên và toàn thể Nhân dân qua các thời kỳ lịch sử đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân và cả người thân yêu của mình để giải phóng Tuy Phong, góp phần thống nhất đất nước. Cám ơn các thế hệ cán bộ đi trước đã có những đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng Tuy phong hôm nay. Đảng bộ và Nhân dân Tuy phong trân trọng cám ơn sự quan tâm của Tỉnh uỷ, HĐND- UBND tỉnh và các sở, ngành của Tỉnh đã hỗ trợ trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển Huyện nhà.

Toàn thể cán bộ, đảng viên, đồng bào, đồng chí và chiến sĩ Huyện nhà hãy phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, kết thành một khối thống nhất, ra sức rèn luyện bản lĩnh, nâng cao kiến thức, chung sức chung lòng, đem tất cả công sức, tâm huyết, tài năng và trí tuệ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững bước tiến lên; quyết tâm xây dựng quê hương Tuy Phong văn minh, giàu đẹp, nghĩa tình, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY, KHOÁ IX

 



1 Trước đó , ngày 22/12/1995, Đảng bộ, quân và dân xã Bình Thạnh được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”

[2]  Cơn bão số 9 đổ bộ vào đêm 11, rạng sáng ngày 12/9 (AL) năm 1983, làm 355 tàu thuyền bị chìm, hư hỏng; 113 người chết và 172 người mất phương tiện lao động.

[3] Toàn huyện đã đưa vào hoạt động 04 nhà máy nhiệt điện than tại Trung tâm điện lực Vĩnh Tân với tổng công suất là 4.244 MW; 02 nhà máy điện gió với tổng công suất là 80 MW; 11 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất là 308 MW. Ngoài ra, còn có 01 Nhà máy điện gió trên đất liền (Vĩnh Hảo 6.3) với công suất 70MW; 04 dự án nhà máy điện gió triên biển với tổng công suất 8.800MW. Đưa vào hoạt động Dự án điện gió Phú Lạc (giai đoạn 2, công suất 25,5 MW). Đã hoàn thành nhưng chưa đưa vào hoạt động phát điện thương mại (Dự án điện gió Bình Thuận giai đoạn 2, công suất 29,7 MW) và 17 dự án điện mặt trời với công suất 1.800MW đã đăng ký khảo sát, nghiên cứu đầu tư.

     [4]Cụm Công nghiệp Bắc Tuy Phong: Xí nghiệp may Tuy Phong; Cụm Công nghiệp Nam Tuy Phong: Nhà máy chế biến bột cá Nam Mỹ và cơ sở sản xuất nước mắm Châu Bắc.

[5]  Năm 1983, toàn huyện chỉ có 400 tàu cá công suất 56 CV, còn lại là tàu thuyền công suất nhỏ.

[6] Chỉ riêng từ năm 2021 đến nay, đã thực hiện kiên cố hóa kênh nương nội đồng được 16 tuyến/chiều dài 5.127,4 mét/hơn 10.004 triệu đồng từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển đất lúa và nguồn hỗ trợ phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm.

[7] Táo của Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phong Phú; Nho Hồng nhật của chủ hộ kinh doanh vườn nho Lê My, xã Phước Thể; Rượu vang Thanh long Pitayana 14%Vol và Rượu vang Thanh long Pitayana 15%Vol của Công ty TNHH Sản xuất thương mại Trần Khang Phong, xã Chí Công; Táo xanh sấy dẻo của HTX Nông nghiệp Phong Phú tại xã Phong Phú; Chả quế, chả lụa của hộ kinh doanh Huỳnh Thiện Cẩm Hồng, xã Bình Thạnh; 4 sản phẩm Dưa lưới (quả vàng và quả xanh) của HTX nông nghiệp Công nghệ cao Hòa Minh tại xã Hòa Minh và HTX nông nghiệp Công nghệ cao Thiện An tại xã Phú Lạc; Nước mắm cá cơm thượng hạng nguyên bản thuần khiết 32 độ đạm- Thương hiệu Nước mắm Hoàng Gia của Công ty TNHH Vạn Xuân FMCG INVESTMENT- Chi nhánh Bình Thuận tại xã Bình Thạnh (đang đề nghị Tỉnh công nhận 4 sao).

[8]  Đã hình thành 04 liên kết: Sản phẩm Nho của Doanh nghiệp tư nhân Tư Thành – xã Phước Thể; sản phẩm gạo của cơ sở xay xát lương thực Mỹ Phố và sản phẩm lúa của nhà máy xay lúa Tân Hồng Phong tại xã Phú Lạc; sản phẩm Thanh Long tại xã Phong Phú và Chí Công của HTX Dịch vụ Nông nghiệp Phong Phú và Chí Công

        [9] Năm 1983, cả nước và Huyện ta đang còn thực hiện cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp.

[10] Nâng cấp, sửa chữa các hạng mục chợ Liên Hương, với tổng vốn là 2.700 triệu đồng; chợ Phan Rí Cửa, với tổng vốn là 2.160 triệu đồng; thường xuyên duy tu, sửa chữa các chợ Vĩnh Tân, Vĩnh Hảo, Bình Thạnh, Phước Thể; Đầu tư xây dựng mới chợ Chí Công, từ nguồn vốn tư nhân là 60 tỉ đồng và đưa vào hoạt động ổn định.

[11] Đưa vào khai thác tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam (đoạn qua địa bàn huyện); các tuyến xe buýt Bắc Bình - Phan Rí Cửa - Chí Công - Liên Hương - Vĩnh Hảo - Vĩnh Tân - Phan Rang của Công ty Cổ phần xe khách Phương Trang; các Công ty dịch vụ vận tải hành khách Minh Nghĩa và Đông Hưng. Đầu tư mới ga Vĩnh Tân, ga Phong Phú và sửa chữa, cải tạo ga Sông Lòng Sông. Cảng Quốc tế Vĩnh Tân cũng cơ bản phát huy tuyến đường thuỷ. Sở Giao thông Vận tải đã Cấp giấy phép hoạt động Bến thuỷ nội địa cho Công ty TNHH Hoàng Phúc Bình Thuận nhằm phục vụ du khách du lịch tại Đảo hòn Cau.

[12] Tuyến đường Quốc lộ 1A được nâng cấp, mở rộng; đầu tư mới các công trình đường giao thông: tuyến đường trục ven biển kết nối từ Liên Hương – Phan Rí Cửa – Phan Thiết; tuyến đường Liên Hương – Phan Dũng; cầu Hòa Phú; tuyến đường Quốc lộ 1A – Nha Mé, Phong Phú; Quốc lộ 1A – Cây Cám, Hòa Minh; Quốc lộ 1A –Cửa Sứt, Phước Thể; Quốc lộ 1A –Hầm Đá- Vĩnh Tiến-Vĩnh Tân.

[13]  Năm 1983, toàn huyện chỉ lắp đặt được 15 máy điện thoại bàn với tổng chiều dài đường dây tải là 45 km. Đến năm 1985, toàn huyện lắp thêm 05 tổng đài, tổng số điện thoại toàn huyện tăng lên 92 máy. Đên cuối năm 2024 có toàn Huyện có 3050 điện thoại bàn, trên 8900 điện thoại di động các loại.

    [14] Trên địa bàn huyện, có 18 khách sạn/451 phòng; 5 khách sạn 1 sao/78 phòng, 51 nhà ở có phòng cho thuê/775 phòng; 10 nhà nghỉ/215 phòng. Các cơ sở lưu trú đều đạt tiêu chuẩn theo quy định từng loại, cơ bản phục vụ tốt nhu cầu lưu trú của du khách.

   [15] Nhà máy nước Phong Phú chính thức hoạt động từ đầu tháng 02 năm 2010. Công suất thiết kế ban đầu là 14.000 m3/ngày đêm; đến năm 2021, Nhà máy đã nâng cấp nhà máy lên công suất 30.000 m3/ngày đêm.

   [16] Riêng 05 năm qua (2020-2024), từ nguồn  ngân sách huyện và tranh thủ nguồn vốn của Trung ương, của Tỉnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như thủy lợi, giao thông, kè biển, giáo dục, y tế,... với tổng kế hoạch vốn đầu tư là 1.023.098 triệu đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh là 492.865 triệu đồng; vốn ngân sách huyện là 530.233 triệu đồng).

   [17] Chỉ riêng giải ngân vốn đầu tư công trong 5 năm (2020-2024): 895.119 triệu/1.023.098 triệu, đạt 87,49%. Trong đó: vốn Tỉnh giải ngân 475.442 triệu/492.865 triệu, đạt 96,46%; vốn Huyện giải ngân 419.677 triệu/530.233 triệu, đạt 79,2%

[18]Xây dựng hệ thống kè biển Phan Rí Cửa, Liên Hương, Phước Thể, Bình Thạnh, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân và kè sông Phan rí Cửa, Phước Thể.

         [19] Toàn huyện 56 trường, gồm 02 trường THPT, 13 trường THCS, 01 trường Tiểu học và THCS, 26 trường tiểu học, 14 trường mẫu giáo, mầm non; ngoài ra, còn có 115 nhóm, lớp giữ trẻ ngoài công lập.

        [20]  Năm 1983, số lượng học sinh phổ thông của toàn huyện là 11.484 học sinh, 519 cháu học mẫu giáo, 157 cháu vào nhà trẻ. Đến năm học 2023 – 2024, số lượng học sinh phổ thông là 23.636 học sinh, 6613 cháu học mẫu giáo, 961 cháu vào nhà trẻ; ngoài ra còn có trên 1.800 trẻ học ở các nhóm, lớp tư thục; tỷ lệ huy động học sinh mẫu giáo đạt 96,7%, học sinh tiểu học đúng độ tuổi đạt 98%; học sinh trung học cơ sở đúng độ tuổi, đạt 94,8%. Tỷ lệ bỏ học bậc THCS 0,42%, không có học sinh tiểu học bỏ học.

[21] Đây là kết quả tính trung bình cho cả hệ Trung học phổ thông và hệ giáo dục thường xuyện; Nếu tính riêng riêng hệ Trung học phổ thông đạt tốt nghiệp trên 99,5%

     [22] Khi mới thành lập, Huyện ta chỉ có một đài truyền thanh phát sóng công suất 100W; các xã, thị trấn thu, phát lại bằng tăng âm từ 50-100W; Đến năm 1991, Huyện mới nối mạng điện lưới quốc gia, Huyện bắt đầu xây lắp thêm kênh truyền hình, công suất 150W; tỉ lệ phủ sóng truyền hình khoảng trên 85% khu dân cư.

 

      [23] Di tích kiến trúc nghệ thuật miếu Quan Thánh, xã Chí Công (2004); Di tích kiến trúc nghệ thuật nhóm đền tháp
Chăm Pô Dam, xã Phú Lạc (1996); Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Bình An, xã Bình Thạnh (1996); Di tích thắng
cảnh Cổ Thạch Tự, xã Bình Thạnh (1993); Di tích ịch sử - văn hóa đình Long Hương, TT. Liên Hương (2008); Di tích
lịch sử - văn hóa vạn Tả Tân, thị trấn Phan Rí Cửa (2008); Di tích lịch sử - văn hóa miếu Hải Tân, thị trấn Phan Rí  Cửa (2008); Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền thờ Hùng Vương (2010); Di tích ịch sử - văn hóa Lăng Ông Nam Hải, xã Bình Thạnh (2011); Di tích lịch sử - văn hóa chùa Phước An, xã Chí Công (2011); Di tích lịch sử - văn hóa đình Lâm Lộc, xã Hòa Minh (2013); Di tích lịch sử - văn hóa chùa Phú Sơn, xã Phú Lạc (2013); Di tích lịch sử - văn hóa Khu di tích Cát Bay, xã Bình Thạnh (2015); Di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Pô Nrop, xã Phong Phú (2015)…

      [24] Đền thờ Liệt sĩ của Huyện khởi công năm 2019, hoàn thành giai đoạn 1 vào ngày 05/8/2020. Hoàn thành đầu tháng
4/2021.

 

BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY, KHOÁ IX
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tháng hiện tại: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
ipv6 ready Chung nhan Tin Nhiem Mang