Làng
Chăm Phú Lạc (Tuy Phong, Bình Thuận) nằm bên con sông Lòng Sông hiền hòa, đắm
say điệu trống Ginăng, Paranưng bập bùng và tiếng kèn Saranai réo rắt. Những cô gái Chăm váy xòe rộng, những chàng trai Chăm
mũ vành khăn, chỉ cần tiếng nhạc và những bóng váy xòe bước ra là đã thấy ngay
màu lễ hội…
Nốt
nhạc …thăng trầm
Tháng 3,
nắng gió vẫn ràn rạt, chúng tôi trở lại vùng đất xã Phú Lạc, nơi có nền văn hóa
Chăm đặc sắc. Người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Cửu Chi Thông, 70 tuổi, ngụ
làng Lạc Trị, một trong 4 người của làng vẫn còn giữ chắc nhịp trống Ginăng.
Bây giờ, trước "cơn lốc" của vô vàn thể loại âm nhạc đương đại ăn
theo thị hiếu nhiều người trẻ, những người dành thời gian để lắng nghe, chia sẻ
về trống Ginăng không nhiều. Thế nên, khi thấy chúng tôi tìm tới nhà với
mong muốn được tìm hiểu về loại nhạc cụ truyền thống này của người Chăm, ông
Thông niềm nở trải lòng như gặp lại con cháu về thăm sau
bao năm trời đằng
đẵng xa quê.
Với vẻ rất thân tình, ông Thông bảo trống Ginăng là “đặc
sản” của đồng bào Chăm, trọn bộ có 72 nhịp căn bản theo ông bà xưa truyền lại. Tuy
trống có 4 thang âm chính, nhưng việc phối nhịp không phải dễ
dàng, tuỳ theo tài năng
của mỗi nghệ sĩ biểu diễn biến tấu sao cho có hồn, thu hút lòng người. Chẳng
hạn, khi người Chăm kết thúc mùa màng lên Tháp thì nhịp điệu phải vui tươi, rộn
rã; còn khi các vũ nữ uyển chuyển trong điệu múa Chăm thì tiếng trống phải dìu
dặt xa đưa, bay bổng… Theo quan niệm người
Chăm, những người có tâm hồn thanh thản, trong sáng thì đánh trống mới nghe rộn
ràng, hùng hồn, còn những người có bụng dạ hẹp hòi, ích kỷ thì tiếng trống khó
đi vào lòng người được. Chơi
trống từ năm 25 tuổi, ròng rã hơn 45 năm trời, tiếng trống của ông đã đem lại
niềm vui cho biết bao người trong các lễ hội truyền thống của đồng bào Chăm như
Ka tê, Pô Đam, Ramưwan, múa cổ truyền…Ông
Thông kể, thế hệ ông trước đây đi tìm thầy để học đánh trống Ginăng là kỳ công
và tốn kém vô cùng. Người nào học đánh trống “nghe được” cũng phải tốn ít nhất 30
giạ lúa, còn người học thành tài, có đủ khả năng để biểu diễn trong các lễ hội
của làng thì lúa phải tính bằng xe bò. Giờ, tìm người ngoài đã khó, còn trong nhà
có 8 đứa con cả trai và gái, cháu chắt đủ đầy nhưng chẳng đứa nào theo nghiệp
của ông. Đôi lúc ngồi nghĩ lại mà quặn đau gan ruột, bao nhiêu cái đẹp, cái hay
của trống được ông cố gắng lĩnh hội, gìn giữ cốt để truyền cho thế hệ sau mà
chẳng có ai để truyền.
Nắng ràn
rạt, gió rít lên từng cơn ngoài hiên nhà, ông Thông hào
hứng nổi trống "đãi" khách bằng những bản nhạc do chính ông dày công
soạn thảo. Ngồi bệt xuống
nền nhà đưa đầu gối nâng chiếc trống, tay phải cầm chiếc dùi gõ, còn những ngón
tay trái nhảy múa uyển chuyển trên mặt trống. “Gừng
càng già càng cay”, tiếng Ginăng vang lên
bập bùng, rạo rực vũ điệu cuồng say, dâng trào như niềm tin thắng lợi, khi hiền
dịu như gió
mát lành bên thửa ruộng mỗi sớm mai, lúc êm đềm như
tiếng nước con sông Lòng Sông xuôi về biển cả...Với đôi tay điêu luyện, chủ nhân của tiếng trống Ghi năng này
từng làm say đắm biết bao chàng trai, cô gái Chăm vùng đất nắng gió Ninh Thuận,
Bình Thuận. Nhìn ông Thông ôm
chiếc trống Ginăng
vào lòng vuốt
ve như báu vật, buông tiếng thở
dài có vẻ như tiếc nuối, buồn xa xăm. Tôi
hiểu nổi lòng sâu thẳm của ông, bởi thế hệ của ông giờ đã là “xưa nay hiếm”,
giữ được "đời sống tinh thần ấy" là cả một đời ông cặm cụi sương gió,
nhiệt huyết và niềm đam mê.
Chia tay ông Cửu
Chi Thông, chúng tôi tìm đến nhà ông Bích Văn Sơn (60 tuổi) ở Lạc Trị. Ông Sơn được xem là
người “có một không hai” ở Phú Lạc chơi kèn saranai. Nói chuyện với chúng tôi,
ông Sơn bảo: “Tiếng kèn đã thấm vào máu tôi hơn
30 năm rồi. Học thổi kèn Saranai này ngoài sự đam mê, khổ luyện thì cần phải có
cái duyên. Không có duyên thì kể như công cốc, vì cái duyên chính là cái hồn,
cái tinh túy nhất để gắn liền với chiếc kèn này”. Theo ông
Sơn, là nhạc cụ không thể thiếu trong các lễ hội của người Chăm, tiếng kèn
saranai với 45 điệu, lúc hân hoan réo rắt, lúc khắc khoải nối đất với trời. Nhưng việc truyền dạy rất khó khăn, thứ nhất là theo
quan niệm xưa nay của đồng bào Chăm không được phép truyền dạy tại nhà, mà việc
truyền dạy phải đem ra ngoài vườn, ngoài rẫy; thứ hai, người học phải có năng
khiếu, đam mê và tâm huyết; thứ ba là các em các cháu bây giờ thích nhạc hiện đại,
có tiết tấu nhanh, còn sự hiểu biết về nhạc cụ dân tộc còn hời hợt….Do cuộc sống
gia đình khó khăn phải bươn chải kiếm sống nên việc luyện tập các ngón nghề
cũng ít dần đi, độ dài của tiếng kèn càng ngắn lại, nhưng mỗi khi làng
có hội, có lễ là ông “xách kèn” phục vụ bất kể ngày đêm. Thổi hết hơi, khàn giọng không phải là điều mà ông băn
khoăn, cái lo của ông chính là, sau mình, ai sẽ là người nối dài tiếng kèn saranai
của cha ông để lại.
Cơn gió
chiều mênh man lẫn trong nổi lòng khắc khỏi vì chưa có người “nối nghiệp”, ông Kinh
Hổ là một trong hai “nghệ nhân” ở làng Lạc Trị còn sử dụng thành thục trống Paranưng
cho biết, đồng bào Chăm bây giờ đã khác xưa nhiều lắm. Gia đình và xóm
làng no ấm hơn nên đời sống văn hóa tinh thần ngày càng nâng cao. Trong các lễ
hội, ngày vui của làng không thể thiếu tiếng trống Paranưng, bởi nhạc cụ này chứa đựng
cả thế giới tâm linh, tín ngưỡng riêng của đồng bào Chăm. Tiếng trống Paranưng vang lên, đó là âm
hưởng linh thiêng, báo hiệu mùa lễ hội sắp đến, mùa màng bội thu nên ai nấy
cũng vui vẻ phấn khởi để hòa mình vào các lễ hội của cộng đồng.
Những vũ điệu Paranưng luôn
được các chàng trai lựa chọn để “đấu” với nhau, chơi độc tấu hoặc cũng có thể
dùng để đệm cho nhau hát và còn là phương tiện để bày tỏ tình cảm với các cô
gái. Không biết tiếng trống
Paranưng sẽ còn "sống" được đến bao lâu khi người "nối
dõi" đang ngày càng "cạn kiệt"?
Tâm tư gửi gắm
Ông Kinh Duy Trịnh (64 tuổi), ở Phú Lạc, nguyên là giáo viên, có nhiều
công trình biên khảo văn hóa Chăm, sách giáo khoa tiếng Chăm cho ngành giáo dục
cho biết: Trong văn hóa
Chăm, âm nhạc là sự kết nối thiêng liêng giữa con người với thần linh và vũ trụ
bao la. Với cuộc sống của người Chăm hôm nay, những thanh âm bập bùng, réo rắt,
huyền bí này còn là sự nối kết những người đang nặng lòng với văn hóa truyền thống
Chăm xích lại gần nhau hơn, cùng hòa chung với những nền văn hóa của các dân tộc
anh em. Tiếng trống Ginăng, Paranưng, kèn
sararai “sống” được thì phải gắn liền với lễ hội, bởi đây là những loại nhạc cụ
đặc biệt chỉ sử dụng trong các nghi lễ tín ngưỡng của đồng bào Chăm, tự thân nó
không tồn tại một cách đơn lẽ, “chơi” được trong tất cả các tiệc tùng, lễ hội
như các loại nhạc cụ hiện đại khác. Tuy nhiên, môi trường sinh tồn
của ca múa nhạc thay đổi nhiều quá, các nghệ nhân gạo cội dần dần già
đi, còn thế hệ trẻ lại thoát ly đi lao động, không có thời gian và
tâm trạng học tập lớp người đi trước, khiến văn hóa âm nhạc Chăm đứng trước
nguy cơ mai một.
Rời Phú Lạc, vẫn còn đó những nỗi
niềm đau đáu tìm người truyền lửa của những người đang giữ lửa. Có lẽ, các cơ quan chức
năng, ngoài việc sưu tầm, ghi âm để lại, cần sử dụng, đưa giá trị âm nhạc
sống động trong đời sống cộng đồng, lễ hội kết hợp du lịch, các hội
thi trình diễn nhạc cụ, nhất là đối với lớp trẻ. Mặt khác, tạo điều kiện tốt cho các nghệ
nhân và con em dân tộc Chăm có điều kiện, môi trường học tập truyền
giao lại tay nghề, trình diễn âm nhạc của cha ông, dân tộc mình, từ
đó vừa khuyến khích vừa tạo tình yêu, trách nhiệm về việc giữ gìn,
tiếp nối, phát huy, bảo tồn và phát triển lại các loại hình âm nhạc,
góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng
bào dân tộc Chăm./.
Nhạc cụ
Chăm sử dụng trong lễ hội bao gồm: Trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai, đàn
Kanhi, Hagar (trống con), Chiêng, Asăng (tù và), Tăngek (nhạc gõ bằng 2
cây gỗ)…là
những nhạc cụ điển hình của các dân tộc Chăm,
những di sản văn hóa hết sức quý giá từ ngàn đời nay, trong đó bộ ba trống Paranưng, Ginăng và kèn Saranai không thể
tách rời nhau trong các lễ hội. Mỗi chiếc trống, chiếc kèn… được ví như những
phần “hồn” của con người.
|
MINH CHIẾN